Kiến tạo môi trường đầu tư trong kỷ nguyên mới

Trải qua gần 40 năm với 7 lần sửa đổi, hệ thống pháp luật đầu tư của Việt Nam đã liên tục thích ứng với bối cảnh đất nước và quốc tế. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) lần này không chỉ đứng trước nhiệm vụ giải quyết những vướng mắc cố hữu về sự chồng chéo, mà còn phải định hình lại chiến lược thu hút FDI có chọn lọc và lần đầu tiên, đẩy mạnh "chân" đầu tư ra nước ngoài...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Trong gần 40 năm qua (12/1987 – 11/2025), quá trình xây dựng hệ thống pháp luật về đầu tư cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư đã luôn phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước và đối ứng được với bối cảnh phức tạp của tình hình địa - chính trị quốc tế ở mỗi giai đoạn.

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là sản phẩm đầu tiên của công cuộc đổi mới và cũng là đạo luật được xây dựng theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. Luật điều chỉnh không chỉ những vấn đề có liên quan đến hình thức, lĩnh vực, địa bàn đầu tư, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nước ngoài, mà còn quy định cả việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

NHỮNG BƯỚC TIẾN QUAN TRỌNG CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ 

Từ năm 1987 đến nay, qua 7 lần sửa đổi bổ sung ở các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992,1996, 2000, 2005, 2014, 2020 (đặc biệt trong năm 2005, Luật Đầu tư nước ngoài được hợp nhất với Luật Doanh nghiệp 1999 thành Luật Đầu tư 2005), đến nay, Luật Đầu tư đã có những bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Điều này cho thấy Đảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn dành sự quan tâm sâu sắc đối với hệ thống luật pháp về đầu tư, đặc biệt về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để kịp thời giải quyết các tồn tại hạn chế và xử lý tốt các vấn đề phát sinh.

Cụ thể: ngày 20/8/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 (Nghị quyết 50) với các quan điểm chỉ đạo chủ yếu.

Một là, xác định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài.

Hai là, chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Ba là, đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội và nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế.

Nghị quyết 50 cho thấy sự chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đầu tư nói chung và về thu hút FDI vào Việt Nam luôn được bổ sung hoàn thiện theo sát bối cảnh trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình nâng cao chất lượng pháp luật về đầu tư vẫn còn có nhiều quy định chồng chéo giữa các văn bản pháp lý liên quan nên chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các vấn đề về đất đai, thuế, tài chính, lao động, nguồn nhân lực... luôn là những vấn đề còn không ít những vướng mắc đối với nhà đầu tư.

Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) hiện nay là một quyết sách kịp thời trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Từ góc độ nghiên cứu chung về đầu tư, đặc biệt là về đầu tư nước ngoài, cho thấy Nghị quyết 50 vẫn là định hướng chính trong thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp tục là cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong sửa đổi luật đầu tư hiện hành.

Bên cạnh đó, các vấn đề sau đây cần được xem xét điều chỉnh thích hợp, cần rút kinh nghiệm của những lần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư trước đây:

Bốn là, việc thi hành Luật Đầu tư 2014 đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục điều chỉnh một số quy định của Luật này, bởi Luật Đầu tư 2014 vẫn chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh để phân định rõ phạm vi điều chỉnh cũng như nguyên tắc áp dụng của Luật Đầu tư và các luật có liên quan (Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công, Luật Quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp...); quy định về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh cũng chưa sát với thực tiễn sản xuất, kinh doanh; các hình thức đầu tư chậm được đổi mới, chưa thích ứng với sự phát triển (hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đã bị hạn chế trong những năm đầu mới mở cửa thu hút FDI (những năm 1990 thế kỷ trước) đã dần được mở rộng và hiện đã chiếm trên 70% là không phù hợp với yêu cầu tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến,... cần có cách tiếp cận xử lý thích hợp trong dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) lần này).

Năm là, Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 đã tạo ra “độ mở” lớn thu hút nhà đầu tư đến với Việt Nam. So với quy định trước đó, Luật Đầu tư 2020 bổ sung những ngành nghề ưu đãi đầu tư mới như: sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, giáo dục đại học, sản xuất trang thiết bị y tế… Quy định mới của Luật Đầu tư 2020 về đối tượng hưởng ưu đãi đầu tư được điều chỉnh theo hướng tập trung hơn vào lĩnh vực công nghệ cao, dự án khởi nghiệp sáng tạo.

Những thay đổi này mang ý nghĩa rất tích cực trong việc làm rõ và bổ sung các quan điểm, chính sách hợp lý của Việt Nam nhằm thu hút vốn FDI. Tuy nhiên, quá trình thực thi Luật Đầu tư 2020 vẫn phát sinh những vướng mắc, bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước về đầu tư.

Thực tế cho thấy việc tạo dựng môi trường pháp lý cho thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài không phải chỉ gói gọn trong việc sửa đổi và hoàn thiện riêng trong khuôn khổ Luật Đầu tư. Một thành công phải kể đến là việc Việt Nam đã đồng thời mở rộng và hoàn thiện khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến đầu tư nước ngoài với việc ký kết nhiều hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước, các khu vực và vùng lãnh thổ.

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN XEM XÉT ĐIỀU CHỈNH

Một số luật quan trọng có liên quan đến hoạt động đầu tư cũng tiếp tục được bổ sung hoàn thiện như: Luật Đất đai, Luật Thương mại, Bộ Luật Lao động, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật Các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, việc kiểm tra, rà soát những văn bản pháp luật chưa đảm bảo chất lượng, xung đột, chồng chéo, do vậy, việc điều chỉnh sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư ở Việt Nam. Đây chính là mục tiêu mà dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) hướng tới.

Cần xem xét, điều chỉnh một số vấn đề sau:

Thứ nhất, số lượng các văn bản pháp luật về đầu tư khá nhiều, nằm rải rác trong các luật và văn bản dưới luật. Đáng chú ý, vẫn còn một số quy định được ban hành, nhưng không đồng bộ và còn chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu hiệu lực của nhau.

Thứ hai, chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đảm bảo. Các quy định đưa ra thiếu tính thực tiễn, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho người dân và doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, các văn bản pháp luật về đầu tư không ổn định với sự thay đổi liên tục của chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đất đai, các thủ tục hành chính… khiến doanh nghiệp không dự tính trước được hiệu quả kinh doanh trong trung và dài hạn.

Thứ tư, trong xu thế phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số tuy đã được cộng đồng doanh nghiệp nhận ra nhưng các giải pháp hỗ trợ của Nhà nước còn chậm, cùng với năng lực tài chính và nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu nên chưa bắt kịp với yêu cầu. Các quy định và hệ thống vẫn sử dụng các giấy tờ, việc thay đổi bằng các giải pháp công nghệ số, trực tuyến còn chậm và hạn chế.

VnEconomy

Bên cạnh các nội dung nêu trên, có hai vấn đề sau cần được lưu ý trong thực hiện dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) hiện nay:

Một là, hình thức đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài) hiện đang chiếm tỷ trọng rất lớn trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt khi nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ đáng khích lệ, thì việc thúc đẩy nâng cao tỷ lệ hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh phải được tập trung phát triển.

Hai là, việc đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đến các thị trường mới nổi chấp nhận đầu tư và hàng hóa “MADE IN VIETNAM” cần được đẩy mạnh (đây là bài học của các nước tiên tiến đã thành công trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước họ thông qua cả việc đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài như bài học của Hàn Quốc,...). Cần tiếp tục đẩy mạnh những thành công hiện có của các doanh nghiệp đầu đàn của Việt Nam đã thành công trong đầu tư ra nước ngoài như Viettel, PVEP thuộc Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Tập đoàn cao su Việt Nam…

NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ 

Với thực tế nêu trên, để hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đẩy mạnh đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, khi hoàn thiện Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) cần tập trung làm rõ các nội dung sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện quy định về chấp thuận chủ trương đầu tư và phân cấp, phân quyền; thực hiện cơ chế phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương trên cơ sở bảo đảm hiệu lực hiệu quả công tác quản lý nhà nước, chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” như đã có giai đoạn trước đây (trong một số năm sau khi có Luật Đầu tư 2025) gắn với tăng cường kiểm tra và giám sát.

Thứ hai, xem xét làm rõ lại quy định về hình thức đầu tư: cần có các quy định cụ thể về việc khuyến khích hình thức đầu tư “công ty liên doanh” hoặc “hợp đồng hợp tác kinh doanh” vì đòi hỏi chuyển giao và tiếp thu công nghệ cao, bảo vệ môi trường,.. trong giai đoạn chuyển đổi số và đầu tư xanh đã là xu hướng phát triên tất yếu của kinh tế toàn cầu.

Thứ ba, đối với đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, đã đến thời điểm Việt Nam cần đi bằng “hai chân” trong đầu tư không chỉ là đầu tư công và đầu tư tư nhân mà còn cần cả đầu tư ra nước ngoài bao gồm tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (mà nguồn vốn FDI đang là nguồn vốn chính của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay) và cần đẩy mạnh cả đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (nguồn vốn OFDI). Đối với OFDI, đề nghị xem xét cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian, chi phí tuân thủ và nghiên cứu bổ sung quy định về chế độ báo cáo rõ ràng phục vụ công tác hậu kiểm.

Bên cạnh các nội dung nêu trên, trong triển khai hoàn chỉnh Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) lần này, cần triển khai gấp việc hoàn thiện thể chế, luật pháp để khắc phục ngay các khiếm khuyết đã được phát hiện như thiếu tính hệ thống, sự chồng chéo và không nhất quán giữa các bộ luật; rà soát lại các văn bản pháp luật về đầu tư nhằm nâng cao chất lượng văn bản, giảm bớt những nội dung không tương thích với luật pháp quốc tế; cập nhật những cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành luật để nhà đầu tư dễ hiểu  dễ thực hiện, xây dựng các khái niệm rõ ràng để tránh việc diễn giải khác nhau gây cản trở đến các hoạt động đầu tư. Quy định rõ ràng và chi tiết, dễ dàng áp dụng các thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư đồng thời đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.

Tiếp tục duy trì sự ổn định chính sách FDI, đây là đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư, vì trong trường hợp thay đổi chính sách như tăng giá tiền thuê đất đối với các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trước đây tại một số địa phương, thì cần tạo thuận lợi đối với các vấn đề khác cho nhà đầu tư khì cần điều chỉnh lại các ưu đãi dành cho họ trong giấy chứng nhận đầu tư đã cấp mà theo quy định của pháp luật hiện hành có thể áp dụng được, tránh gây tâm lý hoài nghi về sự dễ thay đổi của luật pháp Việt Nam làm thiệt hại lợi ích của nhà đầu tư.

Trong trường hợp bất khả kháng, khi Chính phủ trong điều kiện mới bắt buộc phải áp dụng chính sách không có lợi cho nhà đầu tư thì cần thực hiện chính sách “không hồi tố” hoặc bồi thường thiệt hại do chính sách mới gây ra cho họ.

Lượt xem: 8
Nguồn:VnEconomy Sao chép liên kết
Trở lại đầu trang