Bài 5: Luật các tổ chức tín dụng: Định hình chiến lược phát triển trong dòng chảy tài chính thế giới

Việc Quốc hội ban hành Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và tiếp đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025 đã tạo dấu ấn quan trọng trong hành trình hoàn thiện thể chế của đất nước. Những điều chỉnh này đã góp phần khắc phục bất cập trong quản trị rủi ro, xử lý nợ xấu, nâng cao tính minh bạch, đồng thời củng cố năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trong nước. Song, đây mới chỉ là khởi đầu cho tiến trình cải cách sâu rộng hướng tới một nền tài chính – ngân hàng hiện đại, an toàn và bền vững.
Thế giới tài chính đang thay đổi từng ngày với những tiêu chuẩn khắt khe hơn, công nghệ số bứt phá, yêu cầu về tài chính xanh và quản trị rủi ro ngày càng cao. Trong dòng chảy đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần một “kim chỉ nam” đủ mạnh để không chỉ bắt kịp, mà còn vươn lên trong cạnh tranh toàn cầu. Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vì thế không chỉ là một văn bản pháp lý, mà còn là cơ hội để Việt Nam tái định hình chiến lược phát triển ngân hàng trong thời kỳ hội nhập.

LUẬT CĂN CƠ NHƯNG CẦN TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC DÀI HẠN

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc ngày 18/5/2025, Tổng bí thư Tô Lâm nhấn mạnh “Chỉ có cải cách quyết liệt, bền bỉ và hiệu quả mới giúp đất nước ta vượt qua thách thức, nắm bắt thời cơ và hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững trong thời kỳ mới”.

bia1-bai-3-7-.jpg

Việc ban hành kịp thời các đạo luật mà đặc biệt là Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng đã góp phần giúp kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm.

Tuy nhiên, cần nhìn thẳng vào thực tế rằng đất nước đang đứng trước nhiều thách thức tiềm ẩn. Kinh tế tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại; môi trường kinh doanh tuy đã cải thiện nhưng vẫn tồn tại nhiều rào cản. Nhiều đạo luật quan trọng về lĩnh vực tài chính, tín dụng được ban hành đặc biệt là Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025 nhưng đó vẫn chưa phải là điểm dừng của tiến trình hoàn thiện thể chế.

Để làm rõ hơn những nội dung xoay quanh Luật Các tổ chức tín dụng nhóm tác giả đã có ghi nhận ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, nhà hoạch định chính sách và đại diện ngành ngân hàng — những người trực tiếp theo dõi và tham gia vào quá trình xây dựng, triển khai các đạo luật quan trọng như Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025.

Các chuyên gia cho rằng các đạo luật này đã và đang có tác động sâu rộng đối với thị trường tài chính – tiền tệ, góp phần củng cố nền tảng pháp lý cho hệ thống tín dụng, song vẫn cần thêm thời gian để hoàn thiện và phát huy hiệu quả tối đa.

“Việc chúng ta kỳ vọng vào một đạo luật hoàn chỉnh rất khó, thực tế thì luật không bao giờ đi trước thực tế của thị trường; thị trường kinh tế luôn luôn vận động, có rất nhiều thứ mà luật chưa bao hàm, bao quát được.”

- Ông Nguyễn Thanh Hải, thành viên HĐQT Công ty CPTM Nam Hoa -

Dưới góc nhìn của một chuyên gia pháp lý, ông Nguyễn Thanh Hải - Thành viên Hội đồng quản trị CTCP Thương mại Nam Hoa, cho rằng: “Việc chúng ta kỳ vọng vào một đạo luật hoàn chỉnh rất khó, thực tế thì luật không bao giờ đi trước thực tế của thị trường; thị trường kinh tế luôn luôn vận động, có rất nhiều thứ mà luật chưa bao hàm, bao quát được.”

Đồng quan điểm, ông Hà Huy Phong, Giám đốc Công ty Luật TNHH Inteco (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) - nhận định: “Luật Các tổ chức tín dụng là một mảnh ghép quan trọng, góp phần điều chỉnh và ổn định thị trường trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, để coi đây là một giải pháp mang tính tổng thể cho một nền kinh tế thị trường đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, thì có lẽ chúng ta vẫn cần thêm thời gian và những bước đi tiếp theo để hoàn thiện và tạo nên những đột phá mạnh mẽ hơn.”

“Luật Các tổ chức tín dụng là một mảnh ghép quan trọng, góp phần điều chỉnh và ổn định thị trường trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, để coi đây là một giải pháp mang tính tổng thể cho một nền kinh tế thị trường đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, thì có lẽ chúng ta vẫn cần thêm thời gian và những bước đi tiếp theo để hoàn thiện và tạo nên những đột phá mạnh mẽ hơn.”

- Ông Hà Huy Phong, Giám đốc Công ty Luật TNHH Inteco (Đoàn Luật sư Tp Hà Nội) -

Các chuyên gia cũng chỉ ra rằng dù Luật số 96/2025/QH15 đã luật hóa quyền thu giữ, kê biên, xử lý tài sản bảo đảm, giúp các tổ chức tín dụng có công cụ pháp lý mạnh mẽ hơn để xử lý nợ, song nhiều vấn đề khác vẫn còn bỏ ngỏ, đặc biệt liên quan đến cơ chế thực thi và kiểm soát quyền hạn.

Đánh giá cụ thể về quy định này, luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực pháp lý doanh nghiệp, tài chính ngân hàng và cải cách thể chế, cho rằng tuy ủng hộ mạnh mẽ việc luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 nhưng “cần kiểm soát kỹ cơ chế thực thi, đặc biệt là quyền thu giữ và kê biên tài sản. Trong quá trình thực hiện, dễ phát sinh lạm quyền nếu: Hợp đồng không rõ, hoặc bị ngân hàng soạn sẵn, bên vay yếu thế; Tài sản thu giữ vượt quá phạm vi bảo đảm; Việc “công bố công khai” không được giám sát đúng cách, ảnh hưởng đến danh dự và hoạt động của doanh nghiệp đang khó khăn.”

truong-anh-tu.jpg

“Tuy ủng hộ mạnh mẽ việc luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 nhưng “cần kiểm soát kỹ cơ chế thực thi, đặc biệt là quyền thu giữ và kê biên tài sản.”

- Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm -

Ở góc độ rộng hơn, cùng với việc hoàn thiện cơ chế xử lý nợ xấu, việc Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025 được các chuyên gia đánh giá là thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế của VCCI, nhận định: “Luật Các tổ chức tín dụng dù mới được sửa đổi năm ngoái nhưng vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt trong xử lý nợ xấu. Vì thế, Chính phủ tiếp tục trình Quốc hội để sửa luật lần nữa và Luật đã được chính thức thông qua ngày 15/10/2025. Theo quy trình thông thường, việc sửa luật cần nhiều năm, nhưng lần này, Chính phủ không ngại “vào cuộc” ngay. Điều đó cho thấy tinh thần quyết liệt, chủ động trong việc khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.

040520230805-100320231117-202122023221058127.jpg

“Theo quy trình thông thường, việc sửa luật cần nhiều năm, nhưng lần này, Chính phủ không ngại “vào cuộc” ngay. Điều đó cho thấy tinh thần quyết liệt, chủ động trong việc khơi thông dòng vốn cho nền kinh tế.”

- Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI -

Tuy nhiên, cần nhìn nhận thẳng thắn rằng hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay vẫn đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong khi các nước phát triển đã đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường trái phiếu, chứng khoán, thì những kênh huy động vốn trung và dài hạn tại Việt Nam vẫn còn yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại đang phải “gánh” phần lớn nhu cầu vốn của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân.

Sức ép này đòi hỏi hệ thống ngân hàng không chỉ mở rộng tín dụng mà còn phải đảm bảo an toàn, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế. Đây thực sự là một bài toán khó và sẽ là thách thức lớn trong thời gian tới, khi chúng ta cùng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả hơn cho toàn hệ thống.”

Bàn về vấn đề trên, các chuyên gia và hiệp hội doanh nghiệp cũng chỉ ra điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam là vấn đề vốn tự có và chuẩn mực an toàn vốn. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa đạt chuẩn Basel III - bộ tiêu chuẩn quản trị rủi ro toàn cầu mà nhiều nước trong khu vực đã áp dụng từ nhiều năm trước. Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, khoảng cách này không chỉ khiến ngân hàng Việt Nam yếu thế, mà còn làm giảm khả năng chống chịu rủi ro của cả hệ thống tài chính.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn tại Quốc hội đã thẳng thắn chỉ rõ: dư nợ tín dụng trên GDP cuối năm 2024 đã ở mức 134%, phản ánh sự phụ thuộc lớn của nền kinh tế vào nguồn vốn ngân hàng, kể cả vốn trung và dài hạn. Nếu xu hướng này tiếp tục kéo dài, nguy cơ mất cân đối và rủi ro tài chính là điều không thể xem nhẹ.

bia-bai-3-4-.jpg

Không chỉ dừng ở vấn đề tín dụng, Thống đốc còn cảnh báo những thách thức dài hạn như biến đổi khí hậu, già hóa dân số - những yếu tố có thể cản trở tốc độ tăng trưởng và sức bền của nền kinh tế trong nhiều thập kỷ tới. Đây là lời nhắc nhở cần thiết rằng cải cách thể chế tài chính phải song hành cùng tầm nhìn chiến lược, mở rộng các kênh huy động vốn và bảo đảm tính bền vững cho tăng trưởng.

Từ những thách thức nêu trên, tầm nhìn chiến lược dài hạn đặt ra đối với nền kinh tế - tài chính của nước ta chính là cần tiếp tục cải cách Luật tổ chức tín dụng theo hướng bao quát hơn, không chỉ dừng lại ở xử lý nợ xấu, mà phải mở rộng sang hỗ trợ chuyển đổi số, quản trị rủi ro công nghệ, nâng cao chuẩn mực an toàn vốn, phát triển thị trường vốn, và thiết lập hệ thống giám sát tài chính hiện đại. Chỉ khi đó, luật mới thực sự “căn cơ” để không chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại, mà còn tạo sinh lực cho huyết mạch nền kinh trong tương lai.

Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, năm 2030 là giai đoạn định hình và xác lập trật tự thế giới mới, lần chuyển đổi này, "nếu không kịp thời bắt nhịp với thế giới, nhận diện và tranh thủ cơ hội để đặt đất nước vào đúng dòng chảy của thời đại trong 10 năm, 20 năm tới, nguy cơ tụt hậu sẽ hiện hữu hơn bao giờ hết". Luật Các tổ chức tín dụng vì thế không chỉ là công cụ xử lý vấn đề trước mắt, mà phải trở thành động lực căn cơ, tạo nền tảng cho Việt Nam tự tin hòa nhập vào dòng chảy tài chính thế giới.

Những điều chỉnh vừa qua đã mở ra một hành lang pháp lý mạnh mẽ hơn, nhưng chặng đường phía trước đòi hỏi Việt Nam phải “nhìn dài” hơn nữa. Bởi luật không chỉ để xử lý những điểm nghẽn, mà còn phải dẫn dắt hệ thống ngân hàng tiến vào tương lai - nơi hội nhập, cạnh tranh và bứt phá trên sân chơi toàn cầu.

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ ĐỊNH HÌNH CHIẾN LƯỢC CHO VIỆT NAM

Tổng bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong Hội nghị toàn quốc ngày 18/5/2025: “Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo”.

bia1-bai-3-9-.jpg

Trong bối cảnh hội nhập tài chính toàn cầu, việc hoàn thiện khung pháp lý ngân hàng không chỉ nhằm xử lý những tồn tại nội tại mà còn tạo ra sức chống chịu trước biến động và năng lực cạnh tranh lâu dài. Các quốc gia đi trước đã cho thấy một thực tế: luật tài chính - tín dụng càng minh bạch, càng thích ứng nhanh với công nghệ và rủi ro mới, thì nền kinh tế càng vững vàng và tận dụng được cơ hội phát triển. Từ Mỹ, Liên minh châu Âu đến Singapore, Trung Quốc hay Cuba, mỗi nước tuy có cách đi riêng, nhưng tựu chung đều vươn đến sứ mệnh đưa pháp luật vượt lên giới hạn của “hàng rào” kiểm soát để trở thành “đòn bẩy” cho đổi mới và hội nhập.

Sau khủng hoảng tài chính 2008, Mỹ ban hành Đạo luật Dodd-Frank - đạo luật tài chính quan trọng nhất thế kỷ XXI. Luật này siết chặt giám sát với các định chế “quá lớn để sụp đổ”, áp dụng cơ chế kiểm tra sức chịu đựng định kỳ và thành lập Cục Bảo vệ Tài chính Người tiêu dùng (CFPB) nhằm bảo vệ khách hàng. Dù gây tranh luận về tính cạnh tranh quốc tế, Dodd-Frank đã củng cố sự ổn định và niềm tin vào hệ thống ngân hàng Mỹ.

Liên minh châu Âu triển khai Basel III và ban hành Chỉ thị Dịch vụ Thanh toán 2 (PSD2). Basel III giúp tăng khả năng chống chịu rủi ro của ngân hàng, còn PSD2 mở ra cạnh tranh bình đẳng giữa ngân hàng và fintech, thúc đẩy sáng tạo trong khi vẫn đảm bảo an toàn hệ thống. Thách thức lớn nhất của EU là sự hài hòa luật pháp giữa 27 quốc gia thành viên, nhưng họ đã chứng minh tầm quan trọng của một khung pháp lý chung và hiện đại cho hội nhập tài chính.

Tại châu Á, Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ các tập đoàn công nghệ tài chính như Ant Group, đồng thời đi đầu trong phát triển đồng Nhân dân tệ số (e-CNY). Cuba, dù chịu cấm vận, vẫn cải cách mở rộng tiếp cận vốn và chấp nhận quản lý tiền mã hóa để thu hút kiều hối.

Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, đây chính là bài học quý báu khi Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, xác định định hướng xây dựng hệ thống pháp luật tài chính - ngân hàng hiện đại, đồng bộ, đủ sức bảo vệ ổn định vĩ mô, nhưng đồng thời mở đường cho kinh tế số và đổi mới sáng tạo bứt phá. Như trong bài viết "Vươn mình trong hội nhập quốc tế", Tổng bí thư Tô Lâm đã nêu rõ: "Trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau như ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó".

Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang chuyển dịch mạnh mẽ với nhiều yếu tố bất định, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần xác định rõ những động lực then chốt để vừa tận dụng cơ hội, vừa vượt qua thách thức, hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững trong năm 2025 và cả tương lai xa hơn.

ngotrilong.jpg

“Năm 2025 hứa hẹn là một giai đoạn chuyển mình với cả thách thức và cơ hội. Việt Nam cần tập trung vào việc đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện môi trường kinh doanh để tận dụng tối đa tiềm năng này.”

- PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường giá cả, Bộ Tài chính -

PGS.TS Ngô Trí Long – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường giá cả (Bộ Tài chính) nhận định: "Năm 2025 hứa hẹn sẽ là một giai đoạn chuyển mình với cả thách thức và cơ hội. Ông nhận định: “Năm 2025 hứa hẹn là một giai đoạn chuyển mình với cả thách thức và cơ hội. Việt Nam cần tập trung vào việc đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện môi trường kinh doanh để tận dụng tối đa tiềm năng này.”

Phân tích sâu hơn về các lĩnh vực có khả năng tạo đột phá, ông Long nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số và công nghệ trong việc thúc đẩy tăng trưởng. Ông cho rằng: “Thúc đẩy chuyển đổi số và công nghệ, các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (big data), và thương mại điện tử sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Đây cũng là lĩnh vực, ngành nghề có cơ hội đột phá trong năm 2025, là trụ cột của nền kinh tế tương lai.”

Đồng quan điểm, TS. Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh cho rằng: "Năm 2025 sẽ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của kinh tế Việt Nam khi xu hướng toàn cầu đang thay đổi sâu sắc. Ông nhấn mạnh: “Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, khi nền kinh tế toàn cầu chứng kiến sự hòa trộn giữa những áp lực truyền thống và những biến động mới. Với Việt Nam, đây là giai đoạn đầy thử thách, nhưng đồng thời cũng là cơ hội để tái định hình nền kinh tế, nâng cao năng lực thích ứng và cạnh tranh. Điều này đòi hỏi thể chế phải được định hình chuẩn chỉnh cùng với một bộ máy chính trị và bộ máy nhà nước hiệu lực, hiệu quả.”

ts-vo-tri-thanh.jpg

"Với Việt Nam, đây là giai đoạn đầy thử thách, nhưng đồng thời cũng là cơ hội để tái định hình nền kinh tế, nâng cao năng lực thích ứng và cạnh tranh. Điều này đòi hỏi thể chế phải được định hình chuẩn chỉnh cùng với một bộ máy chính trị và bộ máy nhà nước hiệu lực, hiệu quả.”

- Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh -

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu liên tục biến động, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hoàn thiện thể chế sẽ tiếp tục là ba trụ cột chiến lược giúp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng, củng cố năng lực nội sinh và khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Và thực tế đã chứng minh được hướng đi đúng đắn của Việt Nam. Quốc hội thông qua Luật Các tổ chức tín dụng 2024 cùng Luật sửa đổi, bổ sung năm 2025 đã xây dựng nền tảng thể chế vững chắc: từ xử lý nợ xấu, minh bạch hóa sở hữu cổ đông, đến tạo hành lang thử nghiệm cho fintech. Tuy nhiên, lần điều chỉnh Luật lần này sẽ không dừng lại ở việc “vá víu” lỗ hổng, mà cần một khung pháp lý mang tính kiến tạo, vừa kiểm soát rủi ro, vừa mở đường cho sự phát triển dài hạn. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã cảnh báo, trong thời đại cạnh tranh khốc liệt, “ai nắm được cơ hội, vượt qua thách thức thì sẽ thành công, nếu không thì sẽ rơi vào hoàn cảnh ‘trâu chậm uống nước đục’”.

Thông điệp từ nghị trường Quốc hội đến các phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư đều thống nhất: mỗi đạo luật phải là sự kết tinh trí tuệ và khát vọng của nhân dân, hướng tới mục tiêu ấm no của người dân và thịnh vượng của đất nước. Có thể thấy việc điều chỉnh nội dung luật lần này đã mở ra cánh cửa đầu tiên, tháo gỡ điểm nghẽn nợ xấu và phục hồi niềm tin thị trường. Song, chặng đường phía trước đòi hỏi nhiều hơn thế: cần một tầm nhìn cải cách liên tục, một hệ thống ngân hàng đủ sức cạnh tranh toàn cầu, và một nền pháp lý thật sự trở thành động lực phát triển chứ không chỉ là hàng rào phòng thủ.

Bài học từ nhiều quốc gia cho thấy, việc cải cách thể chế và nâng cao năng lực quản trị là chìa khóa giúp củng cố hệ thống tài chính – ngân hàng, tăng cường sức chống chịu và khả năng thích ứng trước các cú sốc toàn cầu.

cthdqtnguyenthanhtung-1-17221552138651057434933.jpg

"Ở góc độ thể chế, tôi đánh giá Luật Sửa đổi bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025 là bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý hiện đại và đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp các ngân hàng Việt Nam, trong đó có Vietcombank có điều kiện nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm an toàn hệ thống và mở rộng hợp tác quốc tế.”

- Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vietcombank -

Từ kinh nghiệm đó, Vietcombank - ngân hàng chủ lực của hệ thống - đã thể hiện rõ định hướng phát triển kiên định và thận trọng. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vietcombank, chia sẻ: “Giữ vai trò là ngân hàng chủ lực, chủ đạo trong việc thực thi các chính sách tiền tệ quốc gia, Vietcombank luôn xác định phát triển bền vững phải gắn với ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, Vietcombank không chọn cách phát triển nóng, mà kiên định theo hướng an toàn – hiệu quả – bền vững, đồng thời chủ động học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong quản trị rủi ro, chuyển đổi số và quản trị vốn.

Chúng tôi đã và đang triển khai 22 chương trình giảm lãi suất cho vay, đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân khôi phục sản xuất, thúc đẩy tiêu dùng, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, Vietcombank tích cực tài trợ các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, đồng thời hướng dòng vốn vào các lĩnh vực phát triển bền vững, kinh tế xanh, năng lượng tái tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng tốt, hiện chiếm xấp xỉ 33% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống Vietcombank.

Ở góc độ thể chế, tôi đánh giá lần sửa đổi lần này là bước đi tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý hiện đại và đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp các ngân hàng Việt Nam – trong đó có Vietcombank – có điều kiện nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm an toàn hệ thống và mở rộng hợp tác quốc tế. Luật mới cũng thúc đẩy tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm, ứng dụng công nghệ và dữ liệu số trong quản trị điều hành. Đây chính là hướng đi mà Vietcombank đã và đang kiên định theo đuổi, để trở thành ngân hàng dẫn đầu về chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.”

Dưới góc nhìn học thuật, PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học – Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ: Việc đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với hoàn thiện thể chế là hướng đi tất yếu để Việt Nam củng cố nội lực, giảm thiểu rủi ro và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế. Ông nhấn mạnh: “Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Việt Nam có thể học hỏi sâu sắc từ kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore, trong việc hoạch định và thực thi các chiến lược để đạt được tăng trưởng kinh tế cao.”

Từ yêu cầu đổi mới đó, Luật Các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng được xem là nền tảng pháp lý quan trọng góp phần củng cố nội lực kinh tế và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính quốc gia.

lenh.jpg

"Ở góc độ thể chế, tôi đánh giá Luật Sửa đổi bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng năm 2025 là bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý hiện đại và đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp các ngân hàng Việt Nam, trong đó có Vietcombank có điều kiện nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm an toàn hệ thống và mở rộng hợp tác quốc tế.”

- Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực II -

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Đức Lệnh – Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực II – cho rằng: “Đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng tín dụng chính là điều: Việc điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi". Ông phân tích: “Đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng tín dụng chính là điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và nhất quán trong việc giảm lãi suất, nới hạn mức tín dụng có kiểm soát. Sự ổn định và hợp lý của mặt bằng lãi suất đã tạo ra dư địa tài chính lớn cho các doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, giúp họ tiếp cận được nguồn vốn chi phí thấp để mở rộng sản xuất, đầu tư máy móc, nhập nguyên liệu và phục hồi chuỗi cung ứng.”

Có thể thấy, lần sửa đổi này đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho các tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả, thể hiện rõ vai trò của Quốc hội là “kiến trúc sư thể chế”, “trụ cột dân chủ”, “đầu tàu đổi mới” và “cầu nối hội nhập quốc tế” trong kỷ nguyên mới.

Đúng như tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tại buổi thảo luận Quốc hội sáng ngày 23/5: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội tiếp tục đồng hành cùng với Chính phủ, tiếp tục cải cách thể chế, pháp luật mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế”.

bia-bai-3-5-.jpg

Nhìn lại hành trình hoàn thiện thể chế tài chính – ngân hàng của Việt Nam, có thể thấy rõ một điều: chúng ta không đi sau để sao chép, mà đi cùng để kiến tạo. Luật các tổ chức tín dụng năm 2024 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2025 là tuyên ngôn cho một tư duy quản trị mới – minh bạch, hiện đại và hướng đến phát triển bền vững.

Lượt xem: 15
Nguồn:Công lý Sao chép liên kết
Trở lại đầu trang