Sau 4 năm ký kết, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đã trở thành chất xúc tác quan trọng cho thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với thị trường các nước trong khối; tạo cơ hội cho DN tiếp cận thị trường lớn, đa dạng các tệp khách hàng tiềm năng.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được ký năm 2020 giữa ASEAN với 5 nước đối tác Australia, New Zealand, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn nhất, bao trùm 30% GDP toàn cầu. RCEP sẽ xóa bỏ khoảng 90% số dòng thuế trong 20 năm kể từ khi có hiệu lực, tốc độ cắt giảm ở các nhóm ngành khá khác nhau. Sau 4 năm chính thức ký kết và gần 3 năm thực thi, Hiệp định RCEP đang tác động tích cực đến xuất nhập khẩu của Việt Nam, cũng như tăng cường vị thế thương mại, tạo lợi thế để thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sang khu vực RCEP đạt khoảng 146,5 tỷ USD, giảm nhẹ 0,3% và chiếm 41,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; 6 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sang các nước RCEP đạt 72,9 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2023 và chiếm 39,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tính riêng các mặt hàng nông, lâm, thủy sản năm 2022 (năm đầu tiên thực thi Hiệp định) đều có tăng trưởng tốt hơn so với năm 2021 (Australia tăng 49,2%; Nhật Bản tăng 27,5%; ASEAN tăng 20,4%…).
Năm 2023, Indonesia tăng 4,5 lần so với năm 2022; Philippines tăng 15,7%; Trung Quốc tăng 15,8%... 6 tháng năm 2024, ngoại trừ 3 nước trong ASEAN (Lào, Myanmar, Brunei), kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản sang các thị trường còn lại trong khối đều ghi nhận kết quả tích cực.
Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) Lương Hoàng Thái đánh giá, Hiệp định RCEP được thực thi đã tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Trước tình hình thế giới đầy biến động, gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra thị trường xuất khẩu ổn định, dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu.
Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI) Nguyễn Thị Thu Trang đánh giá, trong những FTA đã có trước đây, không ít sản phẩm xuất khẩu Việt Nam do sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước nằm ngoài FTA, không thể đáp ứng được yêu cầu xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan. Nhờ vào việc hài hòa quy tắc xuất xứ nội khối RCEP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng khả năng đáp ứng điều kiện để hưởng ưu đãi thuế quan, từ đó gia tăng xuất khẩu trong khu vực này, đặc biệt là ở các thị trường là ở các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…
Doanh nghiệp phải tăng tính chủ động
Dù mang lại nhiều cơ hội, song việc thực thi RCEP cũng tạo ra thách thức không nhỏ đối với cộng đồng DN trong nước. Theo đó, ngành sản xuất trong nước sẽ phải đối mặt với thách thức lớn nhất là hàng hóa từ các nước khác có thể vào Việt Nam với mức thuế suất thấp hơn. Điều này tạo sức éo buộc DN phải thay đổi nhanh hơn và đầy đủ hơn. Trong khi, đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực còn hạn chế cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn khá khiêm tốn.
Chỉ ra những điểm yếu của DN trong nước, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (VCCI) Nguyễn Thị Thu Trang cho biết, đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP là cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam, có năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn. Mặt khác, tham gia RCEP khiến thị trường nội địa cũng phải mở theo, điều này sẽ có đặc thù là các hàng hóa có cơ cấu sản phẩm tương tự sẽ tràn vào Việt Nam. Lúc này, hàng Việt sẽ phải cạnh tranh trực diện với các mặt hàng nhập khẩu từ RCEP.
Bà Nguyễn Thu Trang khuyến nghị, các DN cần phải chủ động, nắm bắt và tìm hiểu các cơ hội đặc biệt từ RCEP, từ đó tận dụng chúng một cách hiệu quả. Đồng thời, cần có chiến lược nâng cao năng lực xuất khẩu, không chỉ tập trung cạnh tranh về giá mà còn là câu chuyện nâng cao chất lượng, để đạt được những yêu cầu tiêu chuẩn hàng hóa đang có xu hướng gia tăng tại các thị trường RCEP. Cần lấy sức ép về cạnh tranh làm động lực để đổi mới và phát triển, đồng thời chú trọng đăng ký sở hữu trí tuệ nếu có sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa…
Đồng quan điểm, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, khi tham gia vào trong chuỗi cung ứng toàn cầu, DN Việt cần tìm cách tham gia sâu hơn, ở phạm vi rộng lớn hơn. Để làm được điều này, DN cần nhận thức, đánh giá lại năng lực hoạt động của chính mình và phải có chiến lược hoặc định hướng rõ về việc tham gia hoặc xây dựng chuỗi cung ứng.
Bên cạnh đó, các DN Việt Nam cần cẩn trọng với vấn đề gian lận thương mại. Do khi thực thi cam kết của RCEP, mỗi nước có ưu đãi thuế quan khác nhau trong cùng một nhóm hàng, nên cũng có quy tắc xuất xứ riêng cho các mức ưu đãi khác nhau, tạo nên sự khác biệt về ưu đãi thuế quan. Điều này dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp nước ngoài gian lận thương mại, lách quy tắc xuất xứ để được hưởng mức ưu đãi thuế quan tốt hơn. Hơn nữa, DN cũng cần lưu ý tình trạng lạm dụng rào cản phi thuế hay các chính sách thiếu minh bạch, ổn định tại các thị trường nội khối.