Tạo lợi thế cho nông sản Việt: khắc chế biến động, cạnh tranh lâu dài

Hệ sinh thái vững mạnh, cải thiện năng lực xúc tiến thương mại, tạo giữ lợi thế nhằm cạnh tranh lâu dài, khắc chế biến động trên “sân nhà” lẫn “sân khách” là điều nên làm cho nông sản Việt. Điều này cần liên hệ tâm trạng “nửa mừng nửa lo” trước việc Mỹ vừa quyết định miễn thuế đối ứng với một số mặt hàng, trong khi tình hình nhập khẩu nông sản lại tăng mạnh, cùng những thay đổi mạnh mẽ trên thị trường.

Mặc dù phía Mỹ vừa mới quyết định miễn thuế đối ứng đối với một số mặt hàng nông sản, thế nhưng các doanh nghiệp (DN) trong ngành hàng nông sản Việt vẫn ở tâm trạng “nửa mừng nửa lo” về khả năng cạnh tranh trên “sân nhà” khi mà lượng nông sản nhập khẩu tăng mạnh trong thời gian gần đây.

Trông chờ hệ sinh thái vững mạnh

Điển hình như ở ngành rau quả, lũy kế 10 tháng năm 2025, chi nhập khẩu rau quả của nước ta đạt gần 2,16 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước. Lượng trái cây ngoại tăng nhanh do giá rẻ hơn và thuế nhập giảm mạnh. Đáng chú ý khi trái cây từ Mỹ chiếm hơn nửa tỷ USD, tăng trên 30%. Rõ ràng đây thách thức lớn về cạnh tranh cho trái cây Việt trên thị trường nội địa. 

-6901-1763372788.png

Các DN trong ngành hàng rau quả cần tạo giữ lợi thế cho mình để khắc chế những biến động thị trường như hiện nay.

Hay như ngành chăn nuôi, số liệu Cục Hải quan cho thấy riêng trong quý 3/2025, sản lượng thịt heo nhập khẩu của Việt Nam (75,2 ngàn tấn) tăng 158,3% về lượng so với quý 3/2024. ông Nguyễn Kim Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, giá heo nhập khẩu chỉ bằng 1/2 và 2/3 tùy loại so với thịt heo trong nước khiến giá heo hơi trong nước giảm mạnh. 

Trước những thách thức hiện hữu như vậy, để thấy việc tạo giữ lợi thế cho ngành hàng nông sản Việt là rất quan trọng nhằm khắc chế biến động, cạnh tranh lâu dài. 

Đứng ở góc độ của một DN có thế mạnh về sản xuất các mặt hàng nông sản như nha đam và thạch dừa, nói về việc tạo lợi thế, ông Nguyễn Văn Thứ, Chủ tịch HĐQT CTCP Thực phẩm G.C (GC Food), nhấn mạnh điều quan trọng đến từ nguồn cung tự chủ. Trong đó, có sự chủ động vùng nguyên liệu nha đam và dừa quy mô lớn. Công ty cũng không phụ thuộc vào thị trường bên ngoài.

Ngoài ra, ông Thứ cũng chỉ rõ lợi thế còn đến từ sản xuất tối ưu. Cụ thể là dây chuyền hiện đại, tự động hóa, giảm hao hụt 10 - 12%. Bản thân công ty cũng kiểm soát chất lượng đồng nhất, từ đó giảm chi phí phát sinh. 

“Nhờ vậy đã giúp công ty có được giá sản phẩm ổn định, hạn chế biến động so với thị trường chung”, ông Nguyễn Văn Thứ nói.

Chia sẻ thêm về hiệu quả chi phí giúp cho giá sản phẩm cạnh tranh, vị chủ tịch GC Food nói rằng đó là nhờ công ty có nhà máy công suất lớn, như với nha đam có công suất 35.000 tấn/năm, còn thạch dừa có công suất 20.000 tấn/năm. Giá trị mang lại từ việc này là giúp duy trì mức giá cạnh tranh, ổn định dài hạn cho đối tác.

Về mặt tối ưu chi phí, theo ông Thứ, công ty mua nguyên liệu với số lượng lớn giúp cho đầu vào tốt. Rồi quá trình vận hành, chi phí cố định phân bổ trên nhiều sản phẩm. Vận chuyển lô lớn, tuyến tối ưu, container đầy tải…

Trong khi đó, với vị trí hàng đầu của một DN chuyên xuất khẩu (XK) trái cây và dành sự quan tâm lớn đến việc tạo lợi thế cho nông sản bản địa, ông Nguyễn Đình Tùng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty Vina T&T Group, tâm sự điều mong mỏi là có một hệ sinh thái nông nghiệp xanh Việt Nam vững mạnh, có khả năng vươn xa trên bản đồ toàn cầu. 

“Mục tiêu của chúng ta không chỉ là XK, mà là cần tạo ra một lớp doanh nông xanh tiềm năng, nâng cao chuỗi giá trị tài nguyên bản địa Việt Nam. Bên cạnh đó là cần lan tỏa tinh thần liên kết chặt chẽ giữa các DN để vượt qua lời nguyền nông nghiệp đầy rủi ro”, ông Tùng nói.

Còn ở góc nhìn của một chuyên gia trong ngành thủy sản, PGs.Ts. Nguyễn Thị Xuân Thu cho rằng thị trường quốc tế đang thay đổi mạnh mẽ. Những quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản không chỉ quan tâm đến sản phẩm chất lượng mà còn đòi hỏi các giá trị xanh, sạch và minh bạch trong toàn bộ chuỗi sản xuất. Điều này đồng nghĩa, chỉ có thủy sản xanh mới đủ sức tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Cần phối hợp giữa các “trụ cột”

Chính vì vậy, theo bà Nguyễn Thị Xuân Thu, điều nên làm với ngành thủy sản Việt là phải chuyển đổi thành công sang thủy sản xanh. Vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ của cả ba trụ cột.

Thứ nhất là Nhà nước đóng vai trò định hướng chiến lược, xây dựng thể chế và giám sát thực thi. Thứ hai là DN - lực lượng nòng cốt trong đầu tư công nghệ sạch, nghiên cứu – phát triển, đồng thời kết nối thị trường và xây dựng thương hiệu. Thứ ba là ngư dân và cộng đồng, vừa là chủ thể tham gia trực tiếp vào sản xuất, vừa là người giám sát và bảo tồn nguồn lợi, đồng thời cần được hỗ trợ đào tạo về kỹ năng nghề cá xanh.

Trong đó, hệ sinh thái xanh cho DN xanh bao gồm: Chính phủ (với cơ chế chính sách, ưu đãi thuế), ngân hàng (tín dụng xanh, lãi suất ưu đãi), viện nghiên cứu (để chuyển giao công nghệ), doanh nghiệp (để hợp tác chuỗi cung ứng xanh) và cộng đồng (để tiêu dùng bền vững).

Ngoài những chia sẻ nêu trên, để tạo lợi thế cho ngành hàng nông sản Việt thì không thể thiếu một “trụ cột” khác là khâu xúc tiến thương mại. Trong đó, như lưu ý của ông Nguyễn Thành Dương, Phó trưởng Phòng phát triển năng lực xúc tiến thương mại thuộc Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), hoạt động xúc tiến thương mại số (Digital Trade Promotion Ecosystem) sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản. Hệ sinh thái xúc tiến thương mại số nhằm mục tiêu thiết lập các kênh tiêu thụ trong nước và quốc tế.

Chẳng hạn như việc ứng dụng iTrace 247 - một hệ thống truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại tiên tiến dựa trên công nghệ blockchain (chuỗi khối) được phát triển bởi Cục Xúc tiến thương mại.

Ông Dương cho biết thông qua ứng dụng như vậy đã tạo ra được hệ thống truy xuất nguồn gốc chuỗi cung ứng toàn diện trong ngành hàng nông sản, từ vùng trồng, trang trại cho đến sơ chế đóng gói, nhà máy chế biến, lưu kho, vận chuyển, bán lẻ và người tiêu dùng.

“Thời gian qua chúng tôi đã triển khai thí điểm ứng dụng này cho các sản phẩm nông sản như mận và xoài Yên Châu (ở Sơn La), nhãn Hưng Yên (tỉnh Hưng Yên), vải Lục Ngạn (Bắc Giang), vải Thanh Hà (Hải Phòng)”, ông Dương chia sẻ.

Mặt khác, ông Nguyễn Thành Dương cũng đề cập đến tính hiệu quả của việc thiết lập bản đồ xúc tiến thương mại nông sản Việt. Điều này đã được ứng dụng trong Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU (EVFTA) nhằm cung cấp cho các tổ chức, DN một nền tảng kết nối giao thương sản phẩm nông sản Việt Nam. Theo đó, đã mang đến trải nghiệm mới trong tìm kiếm thông tin thị trường sản phẩm, kết nối giao thương. Thông tin cung cấp​ luôn được cập nhật theo thời gian thực, chu kỳ vòng đời sản phẩm.

“Nhờ vậy đã hỗ trợ DN, sản phẩm Việt Nam mở rộng thị trường nội địa và XK. Bên cạnh đó, còn làm cơ sở, tài liệu nghiên cứu, đánh giá thị trường cũng như hoạch định chính sách sản xuất phân phối cho cơ quan quản lý”, ông Dương bộc bạch.

Lượt xem: 6
Nguồn:Vnbusiness Sao chép liên kết
Trở lại đầu trang