Chuyển dịch năng lượng - chìa khóa cho an ninh quốc gia và phát triển bền vững
Chuyển dịch năng lượng, từ nguồn hóa thạch sang năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời, thủy triều, hydro xanh... đã trở thành xu thế tất yếu. Trong lĩnh vực còn mới mẻ và cũng nhiều thách thức này, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ cũng như chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế.
Hànộimới Cuối tuần đã có cuộc trò chuyện với Thạc sĩ Đào Mạnh Trí, Giám đốc điều hành Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Môi trường và Biến đổi Khí hậu (CECCS - VUSTA), người từng được đào tạo và thành công trong lĩnh vực năng lượng tại Hoa Kỳ, để làm rõ hơn về vấn đề này.
- Là một chuyên gia tư vấn kỹ thuật cho dự án địa nhiệt ở thành phố Cascade, Hoa Kỳ và từng đoạt danh hiệu “Diễn giả xuất sắc nhất” tại Hội nghị Quốc tế ASEAN về Năng lượng và Môi trường hai năm liên tiếp (2023, 2024), ông có thể chia sẻ rõ hơn về dự án này?
- Công tác hỗ trợ phát triển một dự án địa nhiệt (khai thác năng lượng từ lòng trái đất) ở thành phố Cascade (bang Idaho, Hoa Kỳ) là trải nghiệm đáng nhớ của tôi. Cascade là một địa phương có khoảng 2.800 dân, thuộc vùng sâu, xa và thiếu nguồn lực để chuyển dịch (thu nhập của người dân Idaho gần cuối bảng). Trong khi đó, khai thác địa nhiệt lại tốn kém, đòi hỏi nguồn lực tài chính và chuyên môn cao. Các chính sách từ cấp bang và liên bang đều có mục tiêu bao trùm, nhưng ở cơ sở lại thiếu kinh nghiệm để tận dụng lợi ích từ chính sách. Hiểu được điều này, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã trực tiếp làm việc với các cơ quan quản lý tài nguyên liên bang, cơ quan thực thi chính sách, chính quyền thành phố và đặc biệt là người dân - những người sử dụng năng lượng hằng ngày. Khi nhận thấy lợi ích rõ ràng, họ đã sẵn sàng đóng góp, cùng chung tay tháo gỡ những mâu thuẫn tồn tại nhiều năm. Với khoản đầu tư hỗ trợ ban đầu từ chính phủ, Cascade dự kiến huy động được 11 triệu USD để triển khai dự án.
Dự án sau đó đoạt giải Á quân cuộc thi Địa nhiệt do Bộ Năng lượng Hoa Kỳ tổ chức. Nhưng niềm vui lớn hơn của tôi chính là người dân nơi đây có nguồn năng lượng dồi dào, ổn định để vượt qua mùa đông khắc nghiệt và phát triển kinh tế bền vững. Trải nghiệm ấy nhắc tôi rằng, chuyển dịch năng lượng chỉ bền vững khi có yếu tố công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Tôi nhận thấy Cascade có nhiều điểm tương đồng với một số địa phương ở Việt Nam. Vì vậy, tôi hy vọng có thể áp dụng cách tiếp cận này tại quê hương mình, với bài học quý giá nhất: Muốn thành công, phải làm cho người dân hiểu và ủng hộ. Như câu nói quen thuộc của chúng ta: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Nó cũng thắp lên trong tôi một khát vọng được thực hiện những dự án như vậy ở Việt Nam.
- Vậy theo ông, có thể khái quát con đường chuyển đổi năng lượng của Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Tôi nghĩ trước hết cần tuyên truyền cho người dân, đồng lòng cùng chính quyền các cấp và các ngành liên quan, hiểu và quyết tâm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Mục tiêu, tầm nhìn và giải pháp cho chuyển đổi năng lượng ở Việt Nam đã được Nghị quyết xác định rất rõ: “Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội”; “Ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia”. Điều cốt lõi là phải nhận thức rõ, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường là quốc sách, là vấn đề “tồn tại, phát triển hay là chết”.
Dù đối diện nhiều thách thức, song Việt Nam đang có “cơ hội vàng” nhờ kinh nghiệm tích lũy và sự hỗ trợ quốc tế. Chuyển dịch năng lượng không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng, mà còn tạo điều kiện để Việt Nam trở thành “công xưởng mới” của thế giới - nhưng đó phải là một “công xưởng xanh”. Lợi ích quốc gia, an ninh năng lượng, đời sống nhân dân là những mục tiêu bất di bất dịch. Phương châm là bền vững, chi phí hợp lý, phù hợp với từng địa phương, phát huy sự sáng tạo, không làm kiểu phong trào.
Trước mắt, cần hoàn thiện hệ thống luật chuyên ngành (dầu khí, điện lực...), đồng bộ chính sách về xuất nhập khẩu, thị trường, đất đai, tài nguyên; có cơ chế đột phá mở đường; xây dựng bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về năng lượng. Đồng thời, phải chú trọng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên gia khoa học - kỹ thuật. Quan trọng hơn cả là xóa bỏ tư duy vì lợi ích nhóm, lợi ích ngành hay lợi ích địa phương.
Nghiên cứu của tôi về chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam đã được quan tâm, thảo luận tại nhiều diễn đàn lớn như tại Đại học Princeton (Mỹ), Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) tại Mỹ, Đại học Thanh Hoa (Trung Quốc)... Từ thực tế đó, tôi rút ra rằng chúng ta không nên máy móc áp dụng mô hình từ nước ngoài, mà cần biết chọn lọc, nội địa hóa kinh nghiệm quốc tế để xây dựng cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Phát triển điện mặt trời mái nhà không chỉ là xu hướng tiết kiệm điện cá nhân mà còn nằm trong định hướng phát triển đô thị xanh của Thành phố Hà Nội.
- Ông vừa nhắc đến những trường đại học lớn, cũng như các quốc gia ông từng qua và hợp tác. Theo ông, điều gì chúng ta có thể học tập và rút kinh nghiệm từ các quốc gia trong lĩnh vực này?
- Mỗi quốc gia có một cách làm khác nhau. Tuy vậy, có một số điểm chung để chuyển dịch thành công. Thứ nhất, chính sách phải đón đầu tương lai và đi cùng là nguồn lực tài chính rõ ràng. Nếu thiếu tính thực tế và nguồn lực cần thiết, bất kỳ mô hình hay ý tưởng dù hay tới đâu cũng chỉ là “bánh vẽ”. Thứ hai, phải chuẩn bị hạ tầng kịp với xu thế mới như xe điện, AI, trung tâm dữ liệu... Lưới điện, nguồn dự phòng, kể cả hạ tầng cho các nguồn điện phi tập trung... cũng cần được quy hoạch theo cụm phụ tải - cụm nguồn và gắn chặt với các mô hình dự báo tiên tiến nhất. Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác công - tư trong giáo dục và đào tạo, nuôi dưỡng đội ngũ kỹ sư, nhà quản trị năng lượng, chuyên gia dữ liệu ngay từ ghế nhà trường. Và cuối cùng, điều nên tránh là chạy theo phong trào hay đặt mục tiêu vượt quá sức hạ tầng; bài học từ những ách tắc thủ tục, đấu nối ở một số nước nhắc ta rằng kỷ luật tổ chức, minh bạch dữ liệu và phối hợp liên ngành quan trọng không kém công nghệ.
- Ông có đề xuất gì cho quá trình chuyển dịch năng lượng trước mắt?
- Theo tôi, việc cấp thiết trước hết là đa dạng hóa nguồn điện để tăng tính tự chủ như khai thác gió ngoài khơi, mặt trời, thủy điện nhỏ, sinh khối... Đây là cách tận dụng lợi thế tự nhiên của từng vùng, đồng thời phân bổ theo khu vực phụ tải. Đi cùng đó phải phát triển các nguồn linh hoạt và giải pháp lưu trữ nhằm bảo đảm hệ thống vận hành ổn định. Tránh “tất tay” vào một công nghệ để giảm rủi ro. Kế đến, cần nâng tầm lưới điện: Tập trung các dự án truyền tải trọng điểm, số hóa điều độ, giảm thất thoát. Lưới điện là “xương sống”; xương sống khỏe thì cơ thể mới chạy nhanh, cả nền kinh tế mới có năng suất cao. Thứ ba, cơ chế kinh tế khuyến khích điện sạch phải đi vào thực chất - như thị trường carbon, mua điện trực tiếp cho phụ tải lớn - để doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng khi chuyển sang “xanh”. Cuối cùng, con người và dữ liệu: Đầu tư mô hình hóa hệ thống, phân tích kịch bản chi phí, kết nối Nhà nước - doanh nghiệp - đại học, chuẩn hóa đo lường, báo cáo phát thải và vận hành dữ liệu theo thời gian thực. Việt Nam có nhiều bạn trẻ giỏi; chỉ cần trao cho họ bài toán thật, công cụ thật và người thầy giỏi, tôi tin chúng ta sẽ làm chủ tri thức ngay trên sân nhà. Khi cơ chế minh bạch và dữ liệu tin cậy, niềm tin thị trường sẽ gia tăng, và nguồn vốn giá rẻ sẽ tự tìm đến dự án chuẩn mực. Theo tôi, chúng ta hướng tới tự lực để không lệ thuộc, hội nhập để đi nhanh hơn - hai vế ấy phải đi cùng nhau.