Xây dựng cơ chế đặc thù, vượt trội thu hút triển khai dự án năng lượng
Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2026 nêu rõ: Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút và triển khai các dự án năng lượng quan trọng
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu
Sáng 13/11, với 429/433 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 90,51%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026.

Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026.
Nghị quyết quy định rõ mục tiêu, 15 chỉ tiêu chủ yếu và 11 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trên cơ sở bám sát dự thảo Văn kiện Đại hội 14 của Đảng và Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 13.
Trong đó, nêu rõ các chỉ tiêu: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) phấn đấu từ 10% trở lên; GDP bình quân đầu người đạt 5.400-5.500 đô la Mỹ (USD); tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,96%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 8,5%....
Về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, Nghị quyết nhấn mạnh việc thúc đẩy và làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), khai thác mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…).
Phát triển mạnh thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy du lịch, tăng cường xúc tiến thương mại thông qua nhiều hình thức đa dạng, phong phú, trong đó có tổ chức các hội chợ quy mô lớn về thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…
Đồng thời, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng, khai thác hiệu quả các thị trường truyền thống; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định FTA mới ở các khu vực tiềm năng. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút hiệu quả các quỹ đầu tư quốc tế; thúc đẩy phát triển dịch vụ logistic, vận tải, nhất là việc mở rộng vận tải hàng không, vận tải biển.
Phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn
Tại Nghị quyết cũng đề cập việc xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số làm động lực chính, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiếp tục phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ theo hướng hiện đại; năm 2026 tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số chiếm khoảng 14% GDP của cả nước.
Xây dựng chương trình phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp mới nổi; các đề án phát triển một số cụm liên kết ngành công nghiệp chuyên môn hóa và các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp ứng dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng xanh, năng lượng sạch, không gian vũ trụ, lượng tử…; nghiên cứu xây dựng, triển khai các chính sách, giải pháp đồng bộ, khả thi, hiệu quả để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Đặc biệt, phát triển hạ tầng năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế; tiếp tục thực hiện hiệu quả Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút và triển khai các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia; bảo đảm tiến độ dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.
Ngoài ra, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực hiện đại, chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên, mới nổi, công nghệ cao; tạo đột phá để thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, trọng tâm là ngoại giao công nghệ; thúc đẩy kinh tế biên mậu để tăng cường quan hệ hợp tác với các nước láng giềng; tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam.





In bài viết






















