Chuyển giao công nghệ – Đảm bảo tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp sáng tạo
Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo đang trở thành động lực chủ đạo của tăng trưởng, việc bảo hộ và khai thác tài sản trí tuệ ngày càng có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh nhiệm vụ “thể chế hóa đổi mới sáng tạo, bảo vệ tài sản vô hình” như một trụ cột trong chiến lược phát triển quốc gia. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho doanh nghiệp sáng tạo không chỉ dừng lại ở khâu nghiên cứu và phát triển công nghệ, mà còn phải có chiến lược pháp lý toàn diện để quản trị và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong suốt quá trình kinh doanh.
Chuyển giao công nghệ được đánh giá là một trong những con đường nhanh nhất để doanh nghiệp có thể tiếp cận công nghệ tiên tiến, tối ưu hóa sản xuất và nhanh chóng tạo lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, song hành với cơ hội là những rủi ro tiềm ẩn, đặc biệt liên quan đến việc mất quyền sở hữu trí tuệ hoặc khai thác không hợp pháp các sáng chế, bí mật kinh doanh dẫn đến các tranh chấp pháp lý.
Tại Việt Nam, Luật Chuyển giao công nghệ 2017 và Luật Sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi 2022) đã hình thành khung pháp lý cơ bản, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động chuyển giao. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều hợp đồng chuyển giao thiếu điều khoản rõ ràng về quyền SHTT, dẫn đến tranh chấp, làm giảm hiệu quả của quá trình thương mại hóa. Chính vì vậy, một hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch và cơ chế thực thi hiệu quả là điều kiện tiên quyết để chuyển giao công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển cho doanh nghiệp sáng tạo tại Việt Nam.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
I. Tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ trong chuyển giao công nghệ
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đề cập đến các sản phẩm sáng tạo của trí tuệ con người và được bảo hộ thông qua bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh, qua đó mang lại cho các tác giả quyền độc quyền đối với các sáng tạo của mình trong một khoảng thời gian nhất định, cho phép họ hưởng lợi từ sản phẩm sáng tạo được tạo ra và ngăn chặn các bên khác sử dụng trái phép. Trong khi đó, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc chuyển nhượng hoặc cho phép sử dụng quy trình và sản phẩm.
Mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ có vai trò thiết yếu trong việc kết nối hoạt động nghiên cứu và thương mại hoá, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế. Quá trình chuyển giao công nghệ nhằm thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn bằng cách cho phép chuyển giao các đổi mới từ môi trường học thuật hoặc nghiên cứu sang khu vực thương mại. Nó cho phép các công ty tiếp cận công nghệ và chuyên môn mới mà họ có thể chưa tự phát triển được, đồng thời cũng mang lại nguồn thu và sự công nhận cho các tổ chức và nhà nghiên cứu ban đầu.
Ngoài ra, chuyển giao công nghệ còn đóng góp lợi ích xã hội bằng cách giúp công nghệ tiên tiến và tri thức được phổ biến rộng rãi hơn. Ví dụ, chuyển giao công nghệ từ các cơ sở học thuật có thể dẫn đến việc phát triển phương pháp điều trị y tế mới, giải pháp năng lượng sạch hơn và các quy trình công nghiệp cải tiến.
Tuy nhiên, cũng tồn tại những thách thức và tranh luận xoay quanh sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Một số ý kiến cho rằng việc bảo hộ SHTT quá chặt chẽ có thể cản trở đổi mới và hạn chế khả năng tiếp cận tri thức có giá trị, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển hoặc trong những lĩnh vực liên quan đến lợi ích công cộng lớn, như chăm sóc sức khỏe. Việc cân bằng giữa nhu cầu bảo hộ với việc thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng hợp lý vẫn là thách thức thường trực đối với các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
II. Quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
Ở cấp độ quốc tế, Hiệp định TRIPS (1994) thiết lập tiêu chuẩn tối thiểu về bảo hộ SHTT và ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động chuyển giao công nghệ. WIPO đóng vai trò trung tâm trong việc thúc đẩy cơ chế thương mại hóa công nghệ thông qua bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu và bí mật kinh doanh.
Ở cấp độ quốc gia, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay đã thiết lập một nền tảng tương đối đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ gắn với bảo hộ tài sản trí tuệLuật Chuyển giao công nghệ năm 2017, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2022) tạo khung pháp lý về xác lập, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như điều chỉnh toàn diện hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, Luật Đầu tư năm 2020 cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và quản lý hoạt động chuyển giao. Sự kết hợp của các văn bản này hình thành hành lang pháp lý giúp doanh nghiệp yên tâm hơn khi đưa công nghệ vào thực tiễn, đồng thời bảo đảm rằng tài sản trí tuệ – vốn được coi là nền tảng của đổi mới sáng tạo – luôn được bảo vệ và khai thác đúng pháp luật.
Tuy nhiên, với vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ, sau gần 1 thập kỷ triển, Luật chuyển giao công nghệ đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trên thế giới cũng như bối cảnh chuyển mình, khuyến khích hoạt động KHCN&ĐMST thế giới; chưa đáp ứng bối cảnh đất nước ta chuyển mình bước vào kỷ nguyên mới của sự sáng tạo, đổi mới.
Thứ nhất, các quy định hiện nay mới chủ yếu tập trung vào điều chỉnh chuyển giao các công nghệ truyền thống (thông qua mua bán máy móc, thiết bị, sáng chế), chưa bao quát công nghệ mới như công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, tài sản trí tuệ theo xu thế trên thế giới và thực tiễn hiện nay. Danh mục các ngành nghề được khuyến khích chuyển giao, hạn chế chuyển giao, cấm chuyển giao cũng không được cập nhật để đáp ứng tốc độ thay đổi chóng mặt của kỷ nguyên số.
Thứ hai, các chính sách ưu đãi chưa hiệu quả, chưa tạo động lực hấp dẫn về tài chính, pháp lý và thể chế cho cả bên giao và bên nhận chuyển giao công nghệ, đặc biệt là đối với các công nghệ khuyến khích, ưu tiên chuyển giao như công nghệ chiến lược, công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ xanh, công nghệ sạch. Đặc biệt, pháp luật thiếu các quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ xuyên viên giới đã làm giảm Điều này cũng làm hạn chế việc thu hút các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp FDI công bố và thực hiện kế hoạch chuyển giao công nghệ, cập nhật và đầu tư phát triển khoa học công nghệ cũng như lan toả công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước. Luật còn thiếu quy định cụ thể cho CGCN xuyên biên giới để khuyến khích, thúc đẩy CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài.
Thứ ba, quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ vẫn còn lỏng lẻo. Mặc dù pháp luật đã có cơ chế phối hợp trong quá trình quản lý công nghệ và chuyển giao công nghệ nhưng do có sự chồng chéo và kẽ hở trong hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ, nên trong thực tế, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ chỉ quản lý phần ngọn. Trong quá trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các chủ đầu tư dự án hoặc đối tác nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn tại Việt Nam, các cơ quan chức năng thiếu sự kiểm tra chéo nên luồng công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam ngay từ khâu đầu vào không được kiểm soát chặt chẽ, trừ những dự án đầu tư có điều kiện, cũng như khâu thẩm định công nghệ vẫn còn chưa triệt để dẫn đến nhiều công nghệ lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đã được chuyển giao và lắp đặt tại dự án. Bên cạnh đó, Luật chuyển giao công nghệ 2017 chỉ quy định bắt buộc phải đăng ký trong trường hợp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và chuyển giao công nghệ trong nước có sử dụng vốn nhà nước hoặc ngân sách nhà nước và các trường hợp khác chỉ khuyến khích đăng đã dẫn đến hệ quả là số hợp đồng chuyển giao công nghệ hiện tại không phản ánh đúng thực tế, đặc biệt là đối với chuyển giao công nghệ trong nước nên không đề xuất được chính sách quản lý hoạt động phù hợp.
Thứ tư, pháp luật vẫn còn thiếu cơ chế khuyến khích, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển (thương mại hóa công nghệ nội sinh). Chính các quy định về quản lý tài chính, thủ tục hành chính cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ còn phức tạp, chồng chéo, khiến các trường đại học và viện nghiên cứu gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn kinh phí và triển khai dự án. Việc phân định quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích giữa nhà nước - nhà trường - nhà khoa học chưa đủ rõ ràng, dẫn đến tâm lý e ngại khi tiến hành thương mại hoá các nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, các quy định liên quan tới thị trường khoa học công nghệ chưa minh bạch; các quy định về định giá trong hoạt động chuyển giao thiếu tính khả thi để đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đặc biệt là đối với các công nghệ phi vật lý, tài sản trí tuệ và công nghệ mới.
Hiện nay, Bộ khoa học và công nghệ cũng đang tiến hành đang soạn thảo Dự thảo Luật sửa đổi Luật chuyển giao công nghệ với 06 nhóm nội dung chính sách như: (1) Xác định phạm vi công nghệ điều chỉnh trong Luật để bao quát công nghệ mới theo xu thế trên thế giới và yêu cầu thực tiễn; (2) Hỗ trợ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ nội sinh, bao gồm chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp/tổ chức, cá nhân trong nước, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển; (3) Phát triển thị trường khoa học và công nghệ hoạt động chuyên nghiệp, minh bạch; (4) Tạo động lực tài chính, thể chế, pháp lý cho hoạt động chuyển giao công nghệ; (5) Tăng cường kiểm soát chuyển giao công nghệ xuyên biên giới để vừa kiểm soát an ninh công nghệ, vừa thúc đẩy chuyển giao công nghệ quốc tế hiệu quả; (6) Tăng cường năng lực quản lý nhà nước, thực hiện giám sát, thống kê, đo lường hiệu quả chuyển giao công nghệ. Với việc sửa đổi này, các doanh nghiệp có thể kỳ vọng vào hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, tinh gọn để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đáp ứng được sự chuyển mình của thị trường.
III. Thực tiễn hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn từ tháng 07/2018 (thời điểm Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 có hiệu lực) đến hết năm 2023, cả nước có 579 thỏa thuận chuyển giao công nghệ được cấp giấy chứng nhận đăng ký (bao gồm cấp mới, gia hạn, sửa đổi, bổ sung nội dung chuyển giao công nghệ), với giá trị các hợp đồng khoảng trên 114.000 tỉ đồng. Trong đó, có 493 hợp đồng chuyển giao công nghệ tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (chiếm 85% số lượng hợp đồng), với giá trị khoảng trên 106.000 tỉ đồng (chiếm khoảng 93% giá trị các hợp đồng). Có 02 hợp đồng chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản, Thụy Sĩ)[1]. Có thể thấy, phần lớn các công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, giúp Việt Nam tiếp cận được công nghệ tiên tiến trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các mũi nhọn như dầu khí, điện tử, viễn thông….để góp phần nâng cao năng lực sản xuất, gia tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính tới năm 2023, chỉ 6% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ từ Mỹ và châu Âu, trong khi tỉ lệ dùng công nghệ Trung Quốc lên tới 30–45%. Đáng lo ngại hơn, hơn 65% doanh nghiệp FDI đang áp dụng công nghệ có tuổi đời trên 20 năm, chủ yếu ở mức trung bình; trong khi chỉ 15% tiếp cận công nghệ sản xuất hiện đại gần đây[2]. Ngoài ra, đa phần doanh nghiệp FDI chỉ mua lại công nghệ thay vì đầu tư nâng cấp hoặc đổi mới, khiến tỉ lệ chi cho R&D tại Việt Nam còn rất thấp. Thực trạng này làm hạn chế khả năng chuyển giao và lan tỏa công nghệ trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, vấn đề chuyển giá trong hoạt động chuyển giao công nghệ cũng là một trong những vấn đề “nóng” luôn được quan tâm. Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào doanh nghiệp trong nước (doanh nghiệp FDI) bằng máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết hoặc chuyển giao một số tài sản vô hình cho công ty con tại Việt Nam nhưng được đẩy giá lên cao hơn nhiều so với giá trị thực. Hiện tại khung pháp lý về việc định giá công nghệ, tài sản sở hữu trí tuệ chưa đủ rõ ràng, minh bạch, khả thi cũng như cơ chế thẩm định, kiểm soát của cơ quan nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ đã tạo ra lỗ hổng để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Bằng việc tính giá tài sản cố định cao hơn thực tế, nhà đầu tư nước ngoài đã nâng khống số vốn góp, gây thất thu cho ngân sách; đồng thời số khấu hao tài sản cố định tăng lên tương ứng làm tăng giá thành sản phẩm dẫn đến giảm lãi hoặc bị lỗ, do đó, doanh nghiệp chỉ cần nộp ít hoặc không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
Thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ, nguồn nhân lực tại Việt Nam cũng đã có cơ hội để tiếp cận các công nghệ mới, tạo đà để ứng dụng và phát triển các lĩnh vực công nghệ tại Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn nhân lực này phân bổ không đồng đều, tập trung trong các tập đoàn hoặc các trung tâm nghiên cứu. Nguồn nhân sự phục vụ tại các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, cơ quan quản lý nhà nước còn mỏng, chưa đáp ứng được yêu cầu phức tạp của thị trường. Trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0 đang thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay, việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ nghiên cứu và phát triển sẽ ảnh hưởng lớn đối với hoạt động khoa học và công nghệ nói chung, chuyển giao công nghệ nói riêng.
Ngoài ra, nhiều kết quả hình thành từ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp do các viện nghiên cứu, trường đại học thực hiện đã được thương mại hóa và chuyển giao cho các doanh nghiệp thông qua các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ với sự tham gia tích cực, chủ động từ phía các doanh nghiệp...Tuy nhiên, theo thống kê năm 2023, doanh thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học chuyển giao công nghệ tại các trường vẫn còn rất thấp. Trường ĐH Kinh tế Quốc dân có nguồn thu năm 2023 từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ là trên 42 tỉ đồng, đạt gần 3% doanh thu của trường, ĐH Bách khoa Hà Nội có nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ là 18 tỉ đồng, đạt trên 0,8%. Tỉ lệ này là 4,5% tại trường ĐH Tôn Đức Thắng và đạt 0,7% tại trường Đại học Nguyễn Tất Thành.[3] Một trong những lý do khiến tỉ lệ thấp như trên là do Hệ thống chính sách và pháp luật về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ hiện còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính và quy định tài chính phức tạp, chồng chéo khiến các trường đại học, viện nghiên cứu khó tiếp cận nguồn vốn và triển khai dự án; việc phân định quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích giữa Nhà nước, cơ sở đào tạo và nhà khoa học chưa rõ ràng, làm nhiều cá nhân, tổ chức e ngại khi đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường. Thực tế, nhiều đề tài sử dụng ngân sách nhà nước được coi là tài sản công nhưng chưa có cơ chế linh hoạt để đơn vị chủ trì hoặc tác giả khai thác thương mại hiệu quả, trong khi nguồn lực tài chính cho nghiên cứu còn hạn chế, các trường ngoài công lập chủ yếu dựa vào học phí, thiếu quỹ đầu tư cho giai đoạn thương mại hóa. Bên cạnh đó, mối liên kết giữa giới nghiên cứu và doanh nghiệp vẫn lỏng lẻo, doanh nghiệp thường dè dặt khi đầu tư cho nghiên cứu tại trường đại học do lợi ích kinh tế chưa rõ ràng, quy mô triển khai nhỏ, trong khi sự thiếu hụt quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư mạo hiểm cùng với hạn chế về cơ sở vật chất tại nhiều trường đại học càng làm cản trở quá trình ươm tạo, ứng dụng thực tiễn và hoàn thiện sản phẩm công nghệ mới. Và hơn hết, việc thiếu rõ ràng trong việc định giá như đã đề cập ở các phần trên cũng là một trong những rào cản đối với hoạt động thương mại hoá các kết quả nghiên cứu do không đạt được “thuận mua vừa bán”. Liên qian tới hoạt động thương mại hoá, sự ra đời sàn giao dịch khoa học và công nghệ Việt Nam tại địa chỉ https://techmartvietnam.vn ngày 30/6/2025 được kỳ vọng “bàn tay nối dài” kết nối nghiên cứu-sản xuất-thị trường, là thiết chế hạ tầng cốt lõi thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tri thức.
IV. Kinh nghiệm quốc tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1. Kinh nghiệm quốc tế
Theo báo cáo của WIIW (Vienna Institute for International Economic Studies) phân tích vai trò của đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ tại các quốc gia, chuyển giao công nghệ xuyên biên giới là rất tiềm năng nhằm tăng năng suất và năng lực trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo đối với các quốc gia không có khả năng đổi mới mạnh. Hoạt động và ngân sách nghiên cứu và phát triển (R&D) chỉ tập trung tại một vài quốc gia phát triển. Chính điều đó đã tạo ra khoảng cách lớn giữa “nơi sản xuất tri thức” và “nơi ứng dụng tri thức”, khiến việc chuyển giao công nghệ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để hoạt động chuyển giao công nghệ hiệu quả, cơ chế hợp tác quốc tế, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ linh hoạt và chính sách hỗ trợ hoạt động “Nhập khẩu công nghệ” đóng vai trò tối quan trọng. [4] Hàn Quốc được đánh giá là một trong những quốc gia điển hình đối việc áp dụng thành công hoạt động chuyển giao công nghệ trong việc đổi mới sáng tạo. Trong giai đoạn 1960–1970, Hàn Quốc chủ yếu dựa vào bắt chước phân mảnh (duplicative imitation), tức là lắp ráp theo công nghệ có sẵn, sao chép, hoặc tái sản xuất các sản phẩm nước ngoài và dần cải tiến thông qua kinh nghiệm và tri thức nội tại. Sau quá trình tích luỹ và có đủ năng lực nội địa, như đội ngũ khoa học công nghệ và hạ tầng R&D, Hàn Quốc chuyển sang đẩy mạnh bảo hộ quyền sổ hữu trí tuệ, bước vào giai đoạn sau gọi là bắt chước sáng tạo (creative imitation bằng việc tích hợp công nghệ chuyển giao một cách có chọn lọc, kết hợp với đầu tư nghiên cứu để cải tiến, từ đó tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Bên cạnh đó, việc thúc đẩy thương mại hoá các nghiên cứu ở các quốc gia đã góp phần đáng kể vào thành công của hoạt động đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên số. Ở Anh, Chính phủ đã thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn thông qua chuyển giao công nghệ với khoản đầu tư 95,6 triệu bảng anh cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất tiên tiến, trong đó 20,5 triệu bảng dành cho dự án hợp tác giữa đại học và các doanh nghiẹp. Tại Đoàn Loan, chính phủ giữ vai trò trung tâm với chuyển giao công nghệ để phát triển ngành tự động hóa thông qua các công cụ hỗ trợ như ưu đãi thuế, tài chính, đào tạo, R&D, phát triển sản phẩm và thiết bị, kết nối các nghiên cứu trong trường đại học với ứng dụng trong các doanh nghiệp thông qua cam kết kép giữa chính phủ và doanh nghiệp[5]. Việc hình thành các sàn giao dịch chuyển giao công nghệ cũng đã làm thay đổi đáng kể hoạt động thương mại hoá, thức đẩy đổi mới sáng tạo. Hiện tại trên thế giới có khá nhiều tổ chức trung gian chuyển giao công nghệ hoạt động rất thành công nhờ khung pháp lý minh bạch, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng như Industriell Dynamik (Thụy Điển), Madrid (Tây Ban Nha), Syntens (Hà Lan), NanoBioNet (Đức), Jinnove (Pháp), Yet2.com (Mỹ). Các tổ chức này cung cấp dịch vụ từ tư vấn, đào tạo, cấp phép, hỗ trợ spin-off, kết nối đối tác, đến hỗ trợ tài chính. Có thể thấy, việc đẩy mạnh thương mại hoá, tăng cường mối quan hệ viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, hình thành các doanh nghiệp spin-off, hoạt động góp vốn bằng công nghệ gia tăng đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc thúc đẩy chia chia sẻ quyền, tăng tốc thương mại hóa, giảm thất nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo quy mô kinh tế, và biến tri thức thành sản phẩm/giải pháp.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu phát triển của công nghệ mới đòi hỏi cơ chế pháp lý linh hoạt, đảm bảo, các quốc gia cũng đã có quy địn mới về chuyển giao công nghệ thế hệ mới gắn liền với quản lý luồng dữ liệu, phần mềm, chuyển giao công nghệ xuyên biên giới, chuyển giao công nghệ không tiếp xúc, an ninh công nghệ, kiểm soát đầu đầu tư; sử dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để tự động hóa quá trình chuyển giao công nghệ.
2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Để vượt qua các thách thức nêu trên, doanh nghiệp sáng tạo cần chủ động xây dựng chiến lược pháp lý trong quản trị tài sản trí tuệ khi tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ. Trước hết, việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước và tại các thị trường mục tiêu là điều kiện tiên quyết nhằm ngăn chặn nguy cơ bị chiếm đoạt hoặc khai thác trái phép. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần có cơ chế hợp tác chặt chẽ với các đơn vị nghiên cứu từ khâu xây dựng đề tài thông qua mô hình “đặt hàng – đồng tài trợ” giữa doanh nghiệp và đơn vị nghiên cứu để có thể đẩy mạnh hơn nữa quá trình thương mại hoá các thành quả nghiên cứu. Song song đó, hợp đồng chuyển giao phải được soạn thảo chặt chẽ, làm rõ phạm vi quyền sở hữu, quyền sử dụng, nghĩa vụ bảo mật, chống cạnh tranh, cơ chế giám sát và xử lý vi phạm. Đây là những yếu tố quyết định đến mức độ an toàn của giao dịch, đồng thời giúp doanh nghiệp có cơ sở pháp lý vững chắc nếu xảy ra tranh chấp xảy ra. Cũng nằm trong chuỗi các hoạt động thương mại hoá kết quả nghiên cứu, Việt Nam cũng cần có cơ chế rõ ràng, minh bạch để thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các sàn giao dịch chuyển giao công nghệ.
Thứ hai, Việt Nam cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác quốc tế. Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần đa dạng hóa các kênh hợp tác, hoạt động hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ để mở rộng và tăng cường theo nhiều mức độ khác nhau, từ hợp tác với cơ quan quản lý khoa học công nghệ của các nước, đến các đơn vị nghiên cứu, các tổ chức trung gian liên quan tới phát triển hoạt động khoa học công nghệ. Các nội dung hợp tác cần chủ động gắn chặt với nhu cầu phát triển khoa học trong nước, tăng cường tri thức, kinh nghiệm, thông tin khoa học, bí quyết công nghệ, đào tạo nhân lực và hỗ trợ trang thiết bị, góp phần đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo.
Ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để đảm bảo đáp ứng việc điều chỉnh các công nghệ mới, khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ, giảm thiểu thủ tục hành chính nhà nước, tăng cường ưu đãi trong lĩnh vực này, áp dụng các quy định chặt chẽ về chuyển giá, đảm bảo hài hòa tiêu chuẩn về chuyển giao công nghệ theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ giúp nâng cao tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam và chuẩn mực quốc tế, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của doanh nghiệp trong các giao dịch xuyên biên giới, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ. Quá trình tích luỹ và phát triển sức mạnh nội địa trong lĩnh vực khoa học công nghệ cần có sự song hành với nhau để Việt Nam có sự chuyển dịch mạnh như kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Một giải pháp quan trọng khác là tăng cường năng lực của hệ thống thực thi pháp luật. Các tòa án, trọng tài và cơ quan quản lý cần được trang bị kiến thức chuyên sâu về công nghệ và sở hữu trí tuệ, từ đó nâng cao hiệu quả trong quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động chuyển giao công nghệ, sàng lọc để đảm bảo ngăn chặn công nghệ, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không được chuyển giao vào Việt Nam, tiếp nhận các công nghệ mới để năng cao năng lực của quốc gia.
Đây là những bước đi phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 68-NQ/TW, khẳng định vai trò trung tâm của đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế, đồng thời coi việc bảo vệ tài sản vô hình là yếu tố then chốt để thúc đẩy doanh nghiệp sáng tạo phát triển bền vững.