Luật sư Trương Anh Tú: Luật Sở hữu trí tuệ mới không chỉ bảo vệ quyền, mà phải phát triển tài sản
Tư duy pháp lý IP hiện đại cho thấy: Luật không đi sau công nghệ, mà mở đường cho công nghệ trở thành tài sản sinh lợi.
Tư duy pháp lý IP hiện đại
Trong một lần trao đổi với tác giả gần đây, một doanh nhân công nghệ đã chia sẻ đầy chua chát: “Chúng tôi có người dùng thật, nền tảng thật, dữ liệu thật. Nhưng khi đi vay vốn, ngân hàng vẫn hỏi: anh có đất hay xe để thế chấp không?”. Câu chuyện ấy phơi bày khoảng cách nhức nhối giữa sáng tạo và thể chế. Doanh nghiệp đã tạo ra giá trị vô hình thật, nhưng luật pháp vẫn chưa gọi tên chúng là tài sản.
Luật sư Trương Anh Tú – Chủ tịch TAT Law Firm trao đổi với PV Tạp chí Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo
Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam đến nay chủ yếu vận hành như một “luật bảo hộ quyền” chú trọng đến việc đăng ký, cấp văn bằng, xử lý vi phạm. Nhưng trong kỷ nguyên kinh tế số, khi hơn 80% giá trị doanh nghiệp toàn cầu nằm ở tài sản vô hình, một bộ luật chỉ dừng ở bảo hộ là chưa đủ. Luật mới phải mang triết lý hoàn toàn khác: từ bảo vệ quyền cá nhân sang phát triển tài sản cho cả nền kinh tế, từ ghi nhận để lưu trữ sang ghi nhận để định giá, giao dịch và sinh lợi.
Thế giới đã đi rất xa. Ở Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Singapore, tài sản trí tuệ từ lâu đã được định danh, định giá và tài chính hóa. Doanh nghiệp có thể thế chấp thương hiệu, dùng sáng chế để gọi vốn, đưa phần mềm và dữ liệu vào sổ sách kế toán. Tại Anh, sản phẩm do AI tạo ra vẫn được bảo hộ nếu có yếu tố huấn luyện từ con người. Nhật Bản coi kiến trúc học sâu là sản phẩm công nghiệp cần bảo vệ. Mỹ có cơ chế bồi thường gấp ba lần thiệt hại trong vụ vi phạm IP cố ý. Đây là tư duy pháp lý hiện đại: luật không đi sau công nghệ, mà mở đường cho công nghệ trở thành tài sản sinh lợi.
Con số toàn cầu cho thấy rõ sự chuyển dịch này. Theo WIPO và Brand Finance, ở năm 2025, giá trị tài sản vô hình toàn cầu đã vượt mức 80 nghìn tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng giá trị doanh nghiệp niêm yết toàn cầu. Riêng tại Mỹ, các tài sản vô hình hiện chiếm tới 90% giá trị trong S&P 500, và chỉ riêng thương hiệu đã đạt tới 13 nghìn tỷ USD vào năm 2024. Nghiên cứu của Hall (2007) còn chỉ ra rằng bằng sáng chế châu Âu chỉ thực sự có giá trị thị trường khi đồng thời được bảo hộ tại Mỹ – minh chứng rằng tài sản trí tuệ chỉ trở thành vốn thật khi có hành lang pháp lý mạnh và phạm vi bảo hộ xuyên biên giới.
Trong khi đó, Việt Nam vẫn loay hoay ở “ngưỡng bảo hộ”. Bộ Tài chính chưa có chuẩn mực kế toán để ghi nhận IP như một tài sản doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước chưa có quy trình định giá IP để xét duyệt tín dụng. Luật Dân sự và Luật SHTT chưa cho phép thế chấp IP một cách hiệu lực. Hệ quả là doanh nghiệp sáng tạo chạm trần thể chế: họ có sản phẩm, có người dùng, có doanh thu thật - nhưng không thể tiếp cận vốn chính thống vì tài sản trí tuệ chưa được coi là “hợp pháp” để bảo đảm tín dụng. Nhà đầu tư cũng e ngại vì không có hành lang đủ mạnh để bảo vệ giá trị IP mà họ rót tiền vào.
Những ví dụ thực tiễn cho thấy cái giá của khoảng trống thể chế này. Nhãn hiệu gạo ST25 - từng được vinh danh là ngon nhất thế giới, suýt bị mất quyền tại Mỹ. Nhựa Bình Minh, hơn nửa thế kỷ gây dựng thương hiệu, liên tục bị xâm phạm mẫu mã, khiến việc định giá thương hiệu khi IPO hoặc M&A gặp nhiều khó khăn. Nếu không có bảo hộ, không thể định giá. Không định giá, không thể tài chính hóa. Không tài chính hóa, sáng tạo chỉ là vốn chết.
Luật Sở hữu trí tuệ mới: Sứ mệnh thể chế hóa nghị quyết của Đảng
Trao đổi với PV Tạp chí Sở hữu trí tuệ và Sáng tạo trước Diễn đàn: “Thể chế hoá Đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW”, Luật sư Trương Anh Tú – Chủ tịch TAT Law Firm - Chuyên gia pháp lý về sở hữu trí tuệ, tài sản vô hình và thể chế đổi mới sáng tạo cho rằng, trong thế kỷ 21, tài nguyên quan trọng nhất của một quốc gia không còn là dầu mỏ hay than đá, mà là trí tuệ. “Nếu luật chỉ dừng lại ở bảo hộ quyền, sáng tạo sẽ bị trói chân trong sổ sách. Nếu luật dám chuyển mình sang phát triển tài sản, trí tuệ Việt Nam sẽ không chỉ được bảo vệ, mà còn trở thành vốn thật, sinh lời thật, để Việt Nam không chỉ tăng trưởng bằng chất xám, mà còn có thể dẫn đầu bằng trí tuệ”, Luật sư Tú nêu bật.
Theo Luật sư Tú, nước ta đang quyết liệt cải cách thể chế để phát triển đột phá bằng việc Bộ Chính trị ban hành liên tục nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (NQ 57) và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04 tháng 5 năm 2025 về Phát triển kinh tế tư nhân (NQ 68).
Với NQ 68, lần đầu tiên trong lịch sử các văn kiện của Đảng, đã gọi đích danh “tài sản vô hình” và coi đây là một nguồn lực then chốt, đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa đầy đủ các quyền đối với loại tài sản này (bên cạnh loại “tài sản trí tuệ”). Còn với NQ 57, đây được xem là nghị quyết về hiện đại hóa thể chế khi xác định “đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”.
Thể chế hóa quan điểm của NQ 57 và NQ 68, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ đang được Nhà nước dự thảo (dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, có hiệu lực năm 2026), bổ sung khái niệm lõi – “Tài sản trí tuệ”; nếu được thông qua, sẽ đem lại nhiều thay đổi trong cách tiếp cận đối với – “đối tượng quyền sở hữu trí tuệ”: từ khái niệm, phân loại, tới các tiêu chí khác. Chúng đều được xác định là tài sản của doanh nghiệp. Như thế, đặt ra khả năng về việc tài chính hóa – vốn hóa các tài sản đó.
Trên cơ sở đó, Luật sư Trương Anh Tú kiến nghị, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi tới đây không thể chỉ vá câu chữ, mà phải tạo ra một cuộc cách mạng thể chế. Cần ba bước đi quyết định.
Thứ nhất, thừa nhận IP là tài sản có giá trị kinh tế, được định giá, ghi sổ kế toán, góp vốn, thế chấp, bảo hiểm và chuyển nhượng.
Thứ hai, xây dựng hệ thống định giá minh bạch, có chuẩn quốc gia tham chiếu ISO/IVS, có cơ quan độc lập và cơ sở dữ liệu royalty rates thực tiễn.
Thứ ba, kết nối chặt chẽ với thị trường tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư – để dòng vốn chảy trực tiếp vào sáng tạo. Chỉ khi ba trụ cột này được luật hóa, Việt Nam mới có thể hình thành một nền kinh tế tài sản vô hình thực sự.
Về lộ trình, theo ông Tú, việc thực thi có thể phân kỳ theo hướng: ngắn hạn, triển khai sandbox IP finance, chuẩn hóa định giá và hồ sơ tín dụng IP; trung hạn, vận hành cổng đăng ký IP thế chấp, áp dụng ưu đãi thuế cho giao dịch IP, thiết lập hội đồng định giá độc lập; dài hạn, hình thành thị trường chứng khoán hóa IP (IP-backed securities), tích hợp AI và Big Data để dự báo giá trị tài sản trí tuệ và phục vụ thị trường vốn.
Về phía doanh nghiệp, Luật sư Tú nhấn mạnh: “Doanh nghiệp Việt cũng cần chủ động ngay từ bây giờ: rà soát và bảo hộ IP xuyên biên giới, chuẩn hóa hồ sơ định giá, tích hợp IP vào kế hoạch tài chính, sẵn sàng tham gia sandbox cùng ngân hàng và tổ chức định giá độc lập. Nhà nước không thể đi một mình, và doanh nghiệp không thể đứng ngoài. Đây phải là sự đồng hành của cả hệ sinh thái”.
Ở diễn biến khác có liên quan, ngày 09/9/2025, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký ban hành Nghị quyết số 5/2025/NQ-CP ngày 9/9/2025 của Chính phủ về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 9/9/2025; thời gian thực hiện thí điểm là 5 năm.
Nghị quyết này quy định về triển khai thí điểm chào bán, phát hành tài sản mã hóa, tổ chức thị trường giao dịch tài sản mã hóa và cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa; quản lý nhà nước về thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.
Theo quy định tại Luật Công nghiệp công nghệ số 2025, Tài sản mã hóa là một loại tài sản số mà sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao. Tài sản mã hoá không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính. Tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.