Sở hữu trí tuệ – chìa khóa còn bỏ ngỏ trong giáo dục nghề nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, sở hữu trí tuệ (SHTT) không chỉ là công cụ pháp lý để bảo vệ sáng tạo mà còn là yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Tuy vậy, trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) ở TP.HCM, lĩnh vực này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều sinh viên chưa có khái niệm đầy đủ về bản quyền, chưa biết cách đăng ký quyền tác giả cho sản phẩm học tập của mình, trong khi nhà trường lại thiếu chương trình giảng dạy, học liệu và cơ chế hỗ trợ.

Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề: “Tăng cường tuyên truyền sở hữu trí tuệ trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp tại TP.HCM: Giải pháp thực tiễn gắn với chuyển đổi số” 

Nhằm tìm kiếm giải pháp cho vấn đề này, Ban Tuyên giáo và Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM phối hợp với Trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM và Học viện Quản lý Giáo dục đã tổ chức hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Tăng cường tuyên truyền SHTT trong hệ thống GDNN tại TP.HCM: Giải pháp thực tiễn gắn với chuyển đổi số”.

Khong trng trong đào to và thc tin

Khảo sát thực hiện với 75 đối tượng gồm sinh viên, giảng viên và cán bộ quản lý tại một số trường cao đẳng, trung cấp và cả Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM cho thấy nhận thức về SHTT còn hạn chế. Nhiều sinh viên cho rằng đây là một lĩnh vực khô khan, xa rời thực tế nghề nghiệp. Các môn học hiện nay có đề cập đến vấn đề bản quyền hoặc đạo văn, nhưng chỉ mang tính lồng ghép, thiếu chiều sâu và chưa gắn với đặc thù ngành. Các dự án sáng tạo, đồ án tốt nghiệp hay sản phẩm nghệ thuật thường chưa được hướng dẫn đăng ký quyền tác giả, trong khi doanh nghiệp lại cần nguồn nhân lực am hiểu pháp lý để tham gia thị trường. Sự thiếu hụt này khiến khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn ngày càng lớn.

Ở góc độ nghiên cứu khoa học, Trường Cao đẳng Kinh tế TP.HCM đã có bước tiến nhất định với 105 đề tài trong giai đoạn 2019-2024, trong đó 66 đề tài được nghiệm thu. Tỷ lệ sử dụng tài liệu quốc tế tăng từ 27% lên 41% cho thấy sự cải thiện về chất lượng nghiên cứu. Tuy nhiên, cơ chế quản lý SHTT trong hoạt động này vẫn còn nhiều bất cập. Các đề tài chủ yếu được lưu trữ thủ công, thiếu hệ thống số hóa đồng bộ. Kiểm tra đạo văn mới chỉ áp dụng thử nghiệm bằng phần mềm miễn phí, chưa có tiêu chí chuẩn riêng cho khối GDNN. Khi phát hiện vi phạm, xử lý mới dừng ở mức nhắc nhở, thiếu quy định ràng buộc, dẫn đến việc chưa hình thành được văn hóa nghiên cứu nghiêm túc. Việc đăng ký bản quyền cho các sản phẩm nghiên cứu gần như bỏ ngỏ, khiến giá trị thương mại hóa không được khai thác.

Hoạt động giáo dục nghề nghiệp được kỳ vọng sẽ lồng ghép kiến thức về sở hữu trí tuệ. Ảnh: Trường Cao đẳng Miền Nam

Thực trạng này phản ánh rõ ràng những thách thức cốt lõi: SHTT trong GDNN vẫn bị coi như một nội dung pháp lý phụ trợ, chưa gắn chặt với đào tạo nghề. Đội ngũ giảng viên thiếu chuyên môn sâu, học liệu khan hiếm, công cụ số chưa được áp dụng. Các hoạt động tuyên truyền nếu có cũng chỉ dừng ở mức hình thức, thiếu tính hệ thống. Sinh viên chưa được rèn kỹ năng sử dụng tài nguyên số hợp pháp, dẫn đến nguy cơ vi phạm bản quyền trong học tập và sáng tạo. Trong bối cảnh giảng dạy trực tuyến, thư viện số và mạng xã hội trở thành công cụ phổ biến, rủi ro này càng gia tăng.

Gii pháp gn s hu trí tu vi chuyn đi s

Các chuyên gia cho rằng để khắc phục khoảng trống, cần đưa SHTT trở thành một phần bắt buộc trong chương trình đào tạo nghề. Việc tích hợp có thể theo mô-đun, gắn với các môn học như khởi nghiệp, tin học hay pháp luật, đồng thời bổ sung chuẩn đầu ra về kỹ năng xác lập quyền tác giả và sử dụng tài nguyên số hợp pháp. Trường học cần phát triển học liệu số hóa, xây dựng tình huống thực tiễn để người học thấy rõ tính ứng dụng. Bên cạnh đó, việc thành lập tổ tư vấn SHTT hay trung tâm hỗ trợ bản quyền trong các trường nghề sẽ giúp sinh viên có nơi tham khảo, tra cứu và đăng ký tác phẩm của mình.

Chuyển đổi số cũng mở ra cơ hội để tuyên truyền SHTT hiệu quả hơn. Các hình thức truyền thông sáng tạo như cuộc thi video, sân khấu hóa tình huống vi phạm bản quyền, hay các chiến dịch trên TikTok, YouTube có thể biến kiến thức pháp lý vốn khô khan thành trải nghiệm gần gũi với giới trẻ. Một số đề xuất còn gợi ý ứng dụng công nghệ blockchain hoặc công cụ mã hóa thời gian để định danh sản phẩm sáng tạo, từ đó tăng cường tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi của người học.

Ở tầm quản lý, cần ban hành quy định rõ ràng về trách nhiệm và chế tài xử lý vi phạm bản quyền trong khối GDNN. Đồng thời, phải chuẩn hóa quy trình quản lý đề tài nghiên cứu khoa học, từ khâu nộp đề cương đến nghiệm thu, gắn với quản trị SHTT. Việc xây dựng tiêu chí đạo văn riêng cho hệ thống GDNN, kết hợp đồng bộ phần mềm kiểm tra, sẽ tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, mô hình liên kết trường – doanh nghiệp – cơ quan pháp lý cũng cần được triển khai để tạo sự hỗ trợ toàn diện cho sinh viên.

Doanh nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo, thiết kế, công nghệ có thể đồng hành bằng cách tài trợ, hỗ trợ học bổng, hoặc cùng nhà trường tổ chức các hoạt động truyền thông. Đây vừa là cơ hội tiếp cận nhân lực trẻ, vừa là cách để xây dựng môi trường sáng tạo lành mạnh. Khi các bên cùng tham gia, giáo dục SHTT sẽ không chỉ dừng lại trong khuôn viên nhà trường mà còn lan tỏa ra toàn xã hội.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước đã đưa SHTT vào chương trình giáo dục bắt buộc, coi đây là nền tảng để hình thành văn hóa sáng tạo và hội nhập toàn cầu. Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng nếu chậm trễ trong lĩnh vực này sẽ khó tạo ra lực lượng lao động trẻ vừa có kỹ năng nghề, vừa có ý thức bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ.

Mỗi sản phẩm sáng tạo của sinh viên đều là kết tinh của kiến thức và ước mơ. Khi không được bảo vệ, giá trị ấy dễ dàng bị xâm phạm, làm nản lòng người học. Ngược lại, nếu có hành lang pháp lý vững chắc, sinh viên sẽ tự tin sáng tạo, sẵn sàng khởi nghiệp và hội nhập quốc tế.

TP.HCM vốn được xem là trung tâm sáng tạo và khởi nghiệp, hoàn toàn có thể trở thành địa phương tiên phong về giáo dục SHTT trong khối nghề nghiệp. Khi SHTT được coi trọng, kết hợp với các giải pháp chuyển đổi số, thành phố sẽ có cơ hội hình thành thế hệ lao động trẻ năng động, sáng tạo và có khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Lượt xem: 5
Nguồn:Báo giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh Sao chép liên kết
Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Trở lại đầu trang