Giáo dục song ngữ: Học sinh dân tộc thiểu số thích đến trường học

Giáo dục song ngữ: Học sinh dân tộc thiểu số thích đến trường học

Giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ là một giải pháp để cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số...


Học sinh dân tộc thiểu số chưa thông thạo tiếng Việt là rào cản rất lớn trong quá trình triển khai thực hiện phổ cập giáo dục của nước ta. Việc áp dụng giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại một số trường học sinh dân tộc thiểu số trong mấy năm qua mà Bộ GD-ĐT triển khai thí điểm cho thấy, chất lượng giáo dục được cải thiện rõ rệt. Học sinh tiếp thu nhanh kiến thức, mạnh dạn và tự tin hơn, tạo sự hứng khởi khi đến trường.

Khảo sát hơn 1.000 học sinh từ mầm non đến tiểu học của 3 dân tộc Mông, Jrai và Khmer ở 3 tỉnh Lào Cai, Gia Lai và Trà Vinh, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam cho biết, việc triển khai chương trình giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ (Tiếng Việt-Tiếng dân tộc thiểu số) đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng sâu, vùng xa.

Các em đạt được tiến bộ không chỉ ở những môn khoa học tự nhiên, mà cả ở những môn khoa học xã hội, nhất là môn Tiếng Việt. Tỷ lệ xếp loại khá giỏi của học sinh học song ngữ cao hơn hẳn so với học sinh không học.

hoc sinh dan toc thieu so thich den truong hoc hinh 1

Giáo dục song ngữ giúp cho học sinh dân tộc thiểu số học tập tốt hơn (ảnh minh họa)

Vàng Thị Liên, dân tộc Mông, học sinh trường Tiểu học Bản Phố, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai cho biết: “Từ lớp 1 đến lớp 5, em đều đạt học sinh giỏi. Mặc dù năm nay, em đã được chuyển lên cấp II, không còn được học song ngữ nữa nhưng những kiến thức đã được học ở tiểu học đã giúp ích cho em rất nhiều. Những bài Toán khó, không thể giải được, em có thể hỏi han các bạn  bằng ngôn ngữ của mình”.

Phương pháp giáo dục song ngữ được các trường tổ chức dạy Tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất, Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Việc sử dụng hai ngôn ngữ linh hoạt, tiếng mẹ đẻ luôn hỗ trợ cho Tiếng Việt trong quá trình dạy học giúp học sinh hiểu được các khái niệm, thuật ngữ khó trong bài. Thời lượng sử dụng mỗi ngôn ngữ cũng thay đổi theo từng khối lớp. 

Đến lớp 3, khi năng lực đọc hiểu tiếng Việt đã được nâng cao, học sinh có thể diễn đạt suy nghĩ của mình bằng 2 ngôn ngữ. Sự tác động hỗ trợ tự nhiên giữa 2 ngôn ngữ giúp cho năng lực các em tiếp thu được kiến thức và tiếp tục học lên cao với kết quả cao.

Ông Nguyễn Trọng Ngoạn, Hiệu trưởng Trường Tiểu học IaPhí, huyện ChưPah, tỉnh Gia Lai cho biết: “Về quy mô trường lớp học sinh, lứa thứ nhất gồm 28 em và lứa thứ hai có 27 em. Về chất lượng, lứa thứ nhất đánh giá theo Thông tư 32 sau khi hết một năm học thì 100% học sinh xếp loại từ trung bình trở lên trong đó học sinh khá giỏi chiếm gần 70% về xếp loại giáo dục. Về lứa thứ hai, chúng tôi đánh giá theo thông tư 30 năm 2014 của Bộ GD-ĐT điểm từ 5 trở lên là 100%, trong đó học sinh đạt điểm từ 7 trở lên gần 70% và 100% học sinh qua hai lứa hoàn thành chương trình tiểu học. Tất cả những em được khi được xét vào trường phổ thông dân tộc nội trú hầu như đều ở những lớp song ngữ này”.

Theo các giáo viên, việc triển khai dạy học song ngữ tạo môi trường sư phạm thân thiện, cởi mở. Nếu chưa hiểu bài hoặc còn e ngại tham gia trong hoạt động tập thể thì các em có thể diễn đạt được suy nghĩ của mình bằng tiếng mẹ đẻ với thầy cô giáo. Từ đó, tạo sự hứng khởi cho các em thích mỗi khi đến trường, vui chơi cùng bạn bè, thầy giáo.

Ông Hà Đức Đà - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục dân tộc cho biết“Kết quả các bài kiểm tra đối tượng học sinh song ngữ khi tiếp lên các lớp học cao hơn có điểm khá giỏi cao hơn. Vấn đề mà các tỉnh vùng dân tộc miền núi luôn gặp khó khăn về tỷ lệ chuyển cấp từ tiểu học lên THCS, từ THCS lên THPT thì tỷ lệ chuyển cấp của học sinh song ngữ luôn đạt 100%. Tỷ lệ chuyên cần rất cao và lưu ban, bỏ học hầu như không có. Học sinh song ngữ hòa nhập với cấp học mới một cách tự tin và năng động”.

Thời gian tới, ngành Giáo dục tiếp tục biên soạn và phổ biến tài liệu thử nghiệm chương trình nâng cao thực hành giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ cho học sinh dân tộc thiểu số. Từ đó, sẽ tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên được tiếp cận và thực hiện phương pháp giáo dục mới, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em dân tộc thiểu số... Các địa phương cũng sẽ được cung cấp thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi, học liệu phần mềm dạy học tiếng Việt phù hợp cho tất cả các trường mầm non, tiểu học ở các xã khó khăn...

Bà Nguyễn Thị Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục mầm non, Bộ GD-ĐT cho biết: Bộ phối hợp với các Bộ ngành Trung ương tổ chức biên soạn tài liệu nguồn để phù hợp với vùng miền; tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về nội dung kỹ năng phương pháp tăng cường tiếng Việt, phương pháp dạy tiếng Việt phù hợp với trẻ em người dân tộc thiểu số; biên soạn và và tập huấn tài liệu dành cho cha mẹ trẻ; hỗ trợ cha mẹ xây dựng môi trường giao tiếp tiếng Việt tại gia đình và cộng đồng. Hỗ trợ kỹ thuật cho các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; xây dựng phần mềm dạy học Tiếng Việt và bản đồ ngôn ngữ các dân tộc thiểu số.

Trước yêu cầu đổi mới giáo dục, giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ là một giải pháp để cải thiện và nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, góp phần bảo tồn, phát huy, phát triển ngôn ngữ và văn hóa các dân tộc. Do đó, việc tăng cường triển khai chương trình giáo dục song ngữ ở các địa phương sẽ góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số./.

Theo VOV

Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Trở lại đầu trang