TS Võ Trí Thành: Công nghiệp văn hóa tạo cơ hội cho Việt Nam trên bản đồ kinh tế sáng tạo thế giới
Công nghiệp văn hóa hay kinh tế sáng tạo không phải là một khái niệm mới nhưng dường như lại là một hướng đi mới đầy tiềm năng để khẳng định vị thế Việt Nam trên bản đồ kinh tế sáng tạo thế giới.

TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh. Ảnh: nhân vật cung cấp
Thời gian gần đây, với sự tham gia của các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế khiến cho thị trường ngành công nghiệp văn hóa trở nên ngày càng sôi động. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh về vấn đề này.
Thưa ông, thời gian vừa qua, rất nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn bắt đầu tham gia đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, theo ông vì sao họ lại chọn hướng đi này trong thời điểm hiện tại?
- Biểu diễn âm nhạc (concert) chỉ là một phần của kinh tế sáng tạo, và chúng ta đã thực hiện những cuộc biểu diễn như vậy từ những năm 1980. Nhưng trong những thập niên trở lại đây, đã có sự thay đổi rất lớn về nhận thức. Không chỉ thuần túy là văn hóa mà đây còn là chiến lược phát triển kinh tế với tư duy phát triển bền vững, bao trùm và sáng tạo.
Văn hóa kết hợp với kinh tế có thể tạo ra tính lan tỏa mạnh mẽ. Công nghiệp văn hóa nhờ sự tương tác, lan tỏa có thể tạo ra “sức mạnh mềm”, tạo nên vị thế của một quốc gia. Trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc... Họ có nền kinh tế phát triển với điểm nhấn là công nghiệp văn hóa.
Ở Việt Nam hiện tại, khái niệm về công nghiệp văn hóa - kinh tế sáng tạo đang có những chuyển dịch mạnh mẽ, chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa, vai trò của công nghiệp văn hóa như: Phát huy được bản sắc, di sản, truyền thống, năng lực và tố chất con người Việt Nam (khéo léo, sáng tạo, tinh tế...).
Có những nghiên cứu cho thấy Việt Nam có những lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh lớn, ví dụ như trong lĩnh vực thời trang, kiến trúc đặc biệt là thiết kế nội thất, đồ thủ công mỹ nghệ... một số năm gần đây có thêm công nghiệp biểu diễn, quảng cáo, phim ảnh... Đã có những bộ phim, những concert doanh thu mấy trăm tỉ đồng. Đó chính là di sản của công nghiệp văn hóa. Hay như chương trình âm nhạc tổ chức dịp kỷ niệm đại lễ A80 đã cho thấy tính lan tỏa của sức mạnh tinh thần cực kỳ mạnh mẽ.
Từ sự thay đổi về tư duy bắt đầu dẫn đến sự thay đổi về chính sách. Công nghiệp văn hóa thực tế là một sân chơi, một thị trường hoàn toàn có thể phát triển mạnh. Sự phát triển ấy lại tương thích với góc nhìn về phát triển, về chính sách mới của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, thực tế đầu tư vào công nghiệp văn hóa lúc này là đầu tư vào một thị trường vô cùng lớn, vô cùng tiềm năng và có ý nghĩa. Nhất là trong thời kỳ kinh tế số, chuyển đổi số, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo AI như hiện nay.
Việc mở rộng đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp văn hóa sẽ có tác động như thế nào tới kinh tế Việt Nam hiện tại, theo ông?
- Các nghiên cứu đều chỉ ra là ngành kinh tế sáng tạo này rất quan trọng. Tác động đầu tiên là tạo ra GDP, thứ 2 là tạo ra công ăn việc làm, chưa kể đến xuất khẩu và nhập khẩu, ngoại tệ. Tôi muốn nhấn mạnh hơn đến sự bao trùm: Việc đầu tư phát triển lĩnh vực này sẽ rất tốt cho kinh tế vùng, ví dụ như các vùng nông thôn, khu vực lân cận nội đô, các nhóm yếu thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Một điều quan trọng nữa là ngành kinh tế sáng tạo rất hợp với giới trẻ: Năng động, thích ca hát, biểu diễn, thích sáng tạo và thể hiện mình.
Tiếp theo là câu chuyện khởi nghiệp. Khởi nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật.
Ngành công nghiệp văn hóa có thể giúp Việt Nam chuyển sang cách thức phát triển tạo tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khả năng sáng tạo (không còn là quốc gia xuất khẩu lao động với nhân công giá rẻ, không phải kiếm tiền chủ yếu bằng sức lao động cơ bắp...). Thế hệ trẻ ngày nay bắt nhịp rất nhanh với công nghệ số, công nghệ sáng tạo. Ví dụ mới gần đây thôi, ca sĩ trẻ Đức Phúc đã giành ngôi vị Quán quân cuộc thi âm nhạc quốc tế "Intervision 2025" với ca khúc “Phù Đổng Thiên Vương” của nhạc sĩ Hồ Hoài Anh. Rất sáng tạo và cũng rất truyền thống.
Như vậy, ngoài GDP, xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ hàng hóa sáng tạo thì còn thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, tinh thần sáng tạo trong từng nghệ sĩ. Kinh tế sáng tạo vừa phù hợp với sự mong muốn tăng trưởng phát triển bền vững bao trùm, vừa có những tác động nhất định về chuyển đổi xanh. Thêm nữa, sự lan tỏa của ngành kinh tế này có thể tạo ra ý thức sống lành mạnh, tích cực qua âm nhạc, phim ảnh chất lượng.

Các show thực cảnh được biểu diễn tại Khu du lịch Vinpearl. Ảnh: Vingroup
Nhưng khi các “ông lớn” vào cuộc với những tác động bao trùm thì có ảnh hưởng gì tới các doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hay có tạo ra sự độc quyền, dẫn đến sự phát triển không đồng bộ, thưa ông?
- Các tập đoàn lớn có nguồn lực, cả về năng lực tài chính lẫn năng lực thu hút người tài... nên có nhiều ưu thế, có khả năng tạo ra được giá trị lan tỏa lớn. Thị trường nào cũng có độc quyền và cạnh tranh.
Nhưng thị trường văn hóa lại là một thị trường đặc biệt, có nhiều phân khúc khác nhau. Thị trường văn hóa tập trung vào biểu tượng, âm thanh, màu sắc, đồ họa, hình ảnh, mùi vị... tức là có sự giao thoa rất lớn. Nên cần định vị thật rõ ràng. Bên cạnh các biện pháp chống lại hạn chế cạnh tranh (nguyên tắc về cạnh tranh có nhiều khoản) thì phải có các giải pháp thúc đẩy sáng tạo.
Cụ thể, nếu các doanh nghiệp lớn tham gia phát triển công nghiệp văn hóa có thể hạn chế cạnh tranh bằng cách, họ tạo ra “hệ sinh thái” thu hút các cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng tham gia, ví dụ trong việc tổ chức biểu diễn, sản xuất phim. Bởi tổ chức biểu diễn hay sản xuất phim gồm rất nhiều khâu. Các doanh nghiệp, tổ chức liên kết cùng làm, việc này lại có tác dụng lan tỏa rất lớn.
Văn hóa nghệ thuật là sáng tạo cá nhân. Các tập đoàn kinh tế có thể mang tư duy làm kinh tế áp đặt cho sáng tạo cá nhân?
- Đúng là sáng tạo gắn với cá nhân, nhất là sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Nhưng nó cũng là thị trường. Thị trường thì sẽ có cung và cầu, gắn liền với sức sáng tạo. Đây là quan hệ đa chiều, bổ trợ lẫn nhau nên không phải cứ lớn là muốn áp đặt thế nào cũng được.
Lớn hơn nữa là câu chuyện doanh nghiệp. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế sáng tạo, không chỉ cứ tạo ra lợi nhuận thuần túy là được. Mà sức sống của doanh nghiệp, hình ảnh, giá trị thương hiệu, giá trị sản phẩm đều dựa trên văn hóa của họ. Văn hóa ấy lại phải gắn với sự phát triển bền vững bao trùm, đem lại lợi ích cho mọi người.
Tư duy làm kinh tế bây giờ thay đổi rất nhiều nên doanh nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa sẽ biết cách ứng xử với sáng tạo cá nhân.
Như vậy, chúng ta có thể tin tưởng rằng, công nghiệp văn hóa có thể trở thành động lực chính cho tăng trưởng hay nói cách khác là trụ đỡ cho nền kinh tế?
- Đóng góp của ngành kinh tế sáng tạo rất có ý nghĩa, tính lan tỏa và sức ảnh hưởng lại mạnh mẽ hơn nhiều ngành nghề khác.
Trong đó, sức mạnh văn hóa và các ngành nghệ thuật đôi khi không đo đếm được. Đó là vị thế quốc gia, là hình ảnh thương hiệu, là giá trị doanh nghiệp, là thúc đẩy khởi nghiệp và thúc đẩy sáng tạo của giới trẻ, của người Việt.
Công nghiệp văn hóa không rõ ràng cụ thể như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bất động sản hay xây dựng... nhưng sự lan tỏa của công nghiệp văn hóa lại có ý nghĩa bao trùm rất sâu, rất rộng, không chỉ trong nước mà là phạm vi toàn cầu. Tất nhiên, không phải phân khúc nào chúng ta cũng có lợi thế nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh kinh tế sáng tạo của Việt Nam rất lớn.
Vì vậy, trong tương lai có thể nhìn thấy được sự ưu tiên phát triển. Các doanh nghiệp nội địa phải bứt phá trong cạnh tranh, trong sáng tạo để có sự hỗ trợ phù hợp thích ứng. Bây giờ chính sách, cơ chế bắt đầu có rồi. Còn lại là sự tập trung thôi.
Không chỉ là động lực cho tăng trưởng, ngành kinh tế sáng tạo có thể làm thay đổi vị trí của Việt Nam trên bản đồ sáng tạo thế giới.
Xin cảm ơn ông!





In bài viết






















