Theo số liệu từ Savills Việt Nam, năm 2017 doanh số bán lẻ tại Việt Nam đạt xấp xỉ 129 tỷ USD, tăng 11% so với năm ngoái và đây là một tỷ lệ khá cao nếu so sánh với khu vực Đông Nam Á. Với dân số gần 100 triệu người, gần 70% ở độ tuổi lao động, 34% sinh sống ở đô thị và GDP khoảng 2.385 USD/người (tăng 10% mỗi năm), thị trường bán lẻ tại Việt Nam được đánh giá là có nhiều tiềm năng.
Thị trường Việt Nam đang có sự dịch chuyển giữa các mô hình kinh doanh
Trong đó, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai đô thị phát triển nhất, với tổng số mặt bằng bán lẻ vào khoảng 2,5 triệu m2. Tuy nhiên, mật độ bán lẻ tại hai khu vực này lại thấp hơn 0,2 m2/người, thấp hơn nhiều nếu so sánh với những thành phố lớn trong khu vực như Bangkok (Thái Lan – 0,89m2), Singapore (0,75m2), Beijing (Trung Quốc – 0,65m2), Kuala Lampur (Malaysia – 0,64/m2) and Jakarta (Indonesia – 0,44m2)…
Với những số liệu trên, theo ông Phạm Thái Bình, Trưởng Bộ phận Bán lẻ, Savills TP. Hồ Chí Minh, thị trường bán lẻ tại Việt Nam vẫn có khoảng tăng trưởng nhanh và rất đáng kỳ vọng.
Giai đoạn 2018 - 2021, ước tính thị trường bán lẻ có thể tăng trưởng nhanh chóng để đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của các nhu cầu về giải trí (với mức tăng xấp xỉ 10%), tạp hóa hiện đại (tăng vào khoảng 9% hàng năm) và thời trang (tăng khoảng 6% hàng năm).
Những dịch vụ cá nhân như gym, trung tâm thể dục, và rạp chiếu phim cũng được dự đoán mở rộng với những tiêu chuẩn cao cấp hơn. Những nhà phát triển nước ngoài như, TCC group & Central Group từ Thái Lan, Mapple Tree & Kepple Land từ Singapore, Lotte & Emart từ Hàn Quốc, hay Aeon & Takashimaya của Nhật đều có dự định đầu tư mạnh vào Việt Nam.
Sự tham gia của các nhà đầu tư ngoại này cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự năng động của thị trường và mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm cũng như dịch vụ chuyên nghiệp hơn, thông qua các hoạt động M&A với những thương vụ hợp tác và sự liên kết mang tính chiến lược, ông Bình cho biết thêm.
Sự phát triển của mô hình SM (trung tâm mua sắm) kiểu mới xuất hiện, sở hữu đa chức năng từ mua sắm đến giải trí, hoặc Omni-channel (bán lẻ đa kênh) kết hợp đồng thời các ngành F&B (ẩm thực), siêu thị cao cấp, fast fashion (thời trang nhanh) hay cửa hàng đồng giá… trong thời gian tới cũng được đánh giá nhiều triển vọng.
Bởi, các mô hình này tích hợp được những công nghệ quản lý vận hành hiện đại, công cụ tiếp thị mới một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam ngày càng quen thuộc hơn với việc sử dụng internet, thiết bị điện tử cũng như xu hướng thanh toán bằng thẻ tín dụng cùng sự tăng trưởng của tầng lớp trung lưu cũng sẽ là những thành tố quan trọng để thúc đẩy và thay đổi thị trường bán lẻ tại Việt Nam.
Mô hình mới xuất hiện, thì các mô hình cũ lại đang đứng trước nhiều khó khăn. Cũng theo ông Phạm Thái Bình, trong suốt gần 2 thập niên mô hình Department Store - DS (bách hóa tổng hợp) từng tạo được tiếng vang, khi giới thiệu cho người tiêu dùng tại Việt Nam những xu hướng mua sắm mới và sự gia nhập của các đơn vị nước ngoài.
Tuy nhiên, từ năm 2011 trở lại đây mô hình này bắt đầu bộc lộ những nhược điểm, nhất là khi hình thức SM xuất hiện. Bởi trên thực tế, hành vi, thói quen lẫn năng lực, sở thích tiêu dùng của khách hàng tại các khu vực đều khác nhau và điều này ảnh hưởng mạnh đến việc vận hành của DS, vốn tuân thủ những nguyên tắc nhất định, khó thay đổi.
Ngoài ra, sự giới hạn về diện tích (thường dưới 20.000 m2) cũng là một điểm khó của mô hình DS, bởi không đủ để tối đa hóa, khai thác tiện ích đi kèm bên cạnh mặt hàng kinh doanh chính là thời trang và mỹ phẩm…
Trong khi, với diện tích từ 45.000 đến hơn 60.000 m2, mô hình SM thuận lợi hơn cho việc trải nghiệm mua sắm cộng thêm khu vực ăn uống, làm đẹp, siêu thị thậm chí cả trường học, ngân hàng… trở thành lựa chọn của không chỉ riêng tín đồ mua sắm mà còn thỏa mãn các nhu cầu giải trí của các gia đình, từ trẻ em đến người lớn tuổi.
Thực tế, sự dịch chuyển rõ rệt của người tiêu dùng từ DS sang SM. Không chỉ tại Việt Nam, mô hình DS cũng đang trở nên yếu thế tại các thị trường khác ở châu Á và cả thế giới...
Theo TBNH